Sách "Khâm Định Việt sử thông giám cương mục", ở phần nói vử các sự kiện xảy ra dưới triửu vua Lí Huệ Tông, có chép: "Giáp Thân, năm thứ 14 (1224). Dùng em họ của Hoà ng hậu là Trần Thủ Độ là m Điện tiửn chỉ huy sứ... Thủ Độ quản lĩnh điện tiửn chư quân hộ vệ cấm đình, xét xử tất cả mọi việc" (KĐVSTGCM. Tập I, tr 418). Sự bổ nhiệm nà y, có thể nói, chính là yếu tố chuẩn bị cực kử³ quan trọng cho việc nhà Trần soán lấy thiên hạ của nhà Lí.
Trò đùa (hoặc sự báo ứng) của lịch sử chăng? Ta nhớ lại rằng trước đó hơn hai trăm năm (năm 1009), sau khi Lê đế Long Đĩnh băng hà , Lý Công Uẩn đã được bách quan tôn là m thiên tử. Giang sơn đã từ tay nhà Tiửn Lê vử tay nhà Lí. Chức quan của Lí Công Uẩn khi ấy cũng là Điện tiửn chỉ huy sứ, nắm quyửn thống lĩnh toà n bộ quân cấm vệ. Chỉ có một khác biệt giữa hai người: Điện tiửn chỉ huy sứ Lí Công Uẩn trở thà nh vị Hoà ng đế khai mở vương triửu Lí, còn Điện tiửn chỉ huy sứ Trần Thủ Độ thì trở thà nh một đại công thần, người khởi dựng và đã dùng trọn đời mình để bảo vệ sự tồn tại của vương triửu Trần.
Hãy thử xem lại một lần cái tấn kịch lịch sử của sự chuyển giao vương quyửn từ họ Lí sang họ Trần: "Trần Cảnh lên 8 tuổi, đến phiên và o hầu. Chiêu Hoà ng thấy Cảnh, đem lòng yêu thích, thường mời và o hầu, nô nghịch cười đùa. Trần Cảnh đem việc đó mách Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu quả vậy thì họ ta sẽ là họ nhà vua hay là cả họ sẽ bị giết sạch?".
Một hôm Chiêu Hoà ng lại lấy cái khăn trầu ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lạy, nhận lấy, rồi mách với Thủ Độ. Thủ Độ liửn đem gia thuộc và họ hà ng và o trong cung cấm, sai đóng các cửa thà nh lại. Trăm quan tiến triửu không và o được. Thủ Độ nhân thế loan báo cho mọi người: "Bệ hạ có chồng rồi!". Các quan đửu vâng lời và xin chọn ngà y và o chầu để là m lễ yết kiến.
Ngà y 21 tháng 12, bầy tôi tiến triửu, lạy mừng. Nhà vua xuống chiếu truyửn ngôi cho Trần Cảnh" (Sđd, tr 420). Không hồ nghi gì nữa, tham vọng soán ngôi nhà Lí của Trần Thủ Độ là một sự thật hiển nhiên. Bởi thế ông mới có động lực để ngang nhiên "phiên dịch" những hà nh vi đùa nghịch vô tư của đám trẻ con vương giả theo lối giải nghĩa biểu tượng: Chiêu Hoà ng ném khăn trầu - khăn đựng các đồ ăn trầu, cau, vử, ống vôi - cho Trần Cảnh, tức là muốn... là m dâu họ Trần!
Tuy vậy, ở đây cũng phải thấy óc phán đoán nhanh nhạy và sự chủ động trong xử lí tình huống của Trần Thủ Độ. Buổi mạt vận của nhà Lí, thì chắc chắn không chỉ họ Trần mà rất nhiửu thế lực khác trong triửu cũng đửu lăm le nhòm ngó ngôi tôn quân chí thượng. Sử không chép, nhưng ta cũng có thể hình dung được một bầu không khí đặc quánh lại trong sự dò la, rình rập, giữ miếng và chử đợi thời cơ của các thế lực ấy.
Sự ưa thích theo kiểu bé gái - bé trai của Lí Chiêu Hoà ng với Trần Cảnh lập tức rọi một tia sáng hà nh động cho ông Điện tiửn chỉ huy sứ họ Trần lắm cơ mưu, đồng thời lại đặt ông ở thế được ăn cả ngã vử không, vì rất có thể nó sẽ là đầu mối cho một tấn thảm kịch mà họ Trần phải hứng chịu nếu thất bại - "cả họ sẽ bị giết sạch" - nói như lời Trần Thủ Độ.
Hà nh vi "đem gia thuộc và họ hà ng và o trong cung cấm, sai đóng các cửa thà nh lại" của ông vừa phản ánh khá rõ cái mối lo canh cánh kia, vừa là một quyết định tấn công táo bạo, dứt khoát nhắm và o ngai và ng. Mọi việc cuối cùng đửu thuận lợi, toà n gia họ Trần không những được đảm bảo an toà n mà còn giữ thế thượng phong, có thể ép bách quan phải chấp nhận rằng "bệ hạ có chồng".
Đỉnh điểm cho sự hợp thức hóa việc "sang tên" vương quyửn là tử chiếu truyửn ngôi, có đoạn: "Trẫm xét thấy ngôi báu rất là trọng đại mà trẫm là vua đà n bà , phải gánh vác lịch số do trời giao cho, riêng những nơm nớp lo sợ, như sắp sa xuống vực sâu. Nghĩ sao tìm được hiửn nhân quân tử để giúp đỡ vử chính trị. Duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, uy nghi đường hoà ng, thực có phong độ bậc quân tử, có thể nhường cho ngôi báu để chống đỡ trong buổi gian nguy. Vậy rất mong Trần Cảnh đồng lòng hợp sức, dẹp yên loạn lạc, cứu vớt sinh dân để cùng hưởng phúc thái bình" (Sđd, tr 421). Có thể tin được đây là lời của một bé gái 7 tuổi nói vử một bé trai 8 tuổi chăng?
Vương quyửn đã vử tay, nhưng nhà Trần liệu có thể yên tâm kê cao gối mà ngủ? Trong bối cảnh những ngà y đầu của triửu đình nhà Trần, vai trò người hộ giá mẫn cán mà Trần Thủ Độ gánh lấy là cực kử³ quan trọng. "Nhổ cử phải nhổ hết rễ sâu" - với triết lí hà nh động sặc mùi chuyên chế như vậy, Trần Thủ Độ lần lượt bức tử Lí Huệ Tông (năm 1226, lúc nà y cựu hoà ng nhà Lí chỉ là một ông sư ở chùa Chân Giáo), rồi lập kế chôn sống toà n bộ tôn thất nhà Lí (năm 1232).
Trong con mắt hậu nhân, đây chính là vết đen rất khó tẩy rửa trên chân dung của Trần Thủ Độ. Dực Tôn hoà ng đế Tự Đức, ông vua nổi tiếng nghiêm khắc của nhà Nguyễn hạ bút: "Thủ Độ là công thần nhà Trần, tức là tội nhân nhà Lí. Huống chi là m những nết xấu như chó lợn (câu nà y chỉ việc Trần Thủ Độ lấy vợ của Lí Huệ Tông, cũng tức là chị họ của ông) dạ độc như hùm beo, dựng nước mà như thế thì là m thế nà o mà lâu dà i được?" (Sđd, tr 426).
Tuy vậy, thử đặt câu hửi: Ở buổi đầu của triửu Trần, nếu Trần Thủ Độ không xuống tay trước, liệu tôn thất nhà Lí và các thế lực phò Lí có chịu ngoan ngoãn thúc thủ sau khi đã bị tước đoạt quyửn lực một cách tức tưởi?, ta sẽ có đầy đủ lí do để biện hộ cho hà nh động tận diệt Lí gia của Trần Thủ Độ.
Lịch sử là như vậy, không trang sử nà o là không có mùi bạo lực và trấn áp. Nhân vật nà y hay nhân vật khác, dù uy quyửn có trùm thiên hạ, nhưng phải chăng cũng chỉ là những cái ngẫu nhiên hiện lên giữa trang sử, những cái ngẫu nhiên tồn tại để phục vụ cho một tất yếu không thể cườ¡ng lại được?
Hơn nữa, suy luận theo kiểu nhân quả máy móc, hoà n toà n có thể nói rằng nếu Trần Thủ Độ không quyết liệt trong việc bảo vệ cho sự tồn tại của triửu Trần lúc khai quốc, lịch sử Việt Nam cũng sẽ không có cơ hội để sau đó ghi nhận một chính quyửn quân sự, một hà o khí Đông A mạnh đến mức có thể ba lần chặn đứng vó ngựa xâm lược của quân Nguyên Mông.
Có lẽ, vì không thể phủ nhận được chuyện nà y nên vua Tự Đức, dù đầy ác cảm, vẫn đà nh phải miễn cườ¡ng khen: "Thủ Độ vốn là người không biết chữ, thế mà một mình kinh doanh, dựng lên được nghiệp lớn thì thực là cương quyết hiểm giảo, xưa nay ít có mấy người" (Sđd, tr 438).
Thái độ, cung cách ứng xử của Trần Thủ Độ với vua Trần cũng là điửu rất đáng nói. Với sức mạnh và uy thế mà Trần Thủ Độ thực có, ta có quyửn hình dung một kịch bản: sau khi đã cướp ngôi nhà Lí vử cho nhà Trần, vua còn nhử, Trần Thủ Độ sẽ giữ quyửn nhiếp chính, chử một cơ hội thuận tiện, một lí do khả dĩ là lập tức tự đưa mình lên ngôi đế. Quá nhiửu tiửn lệ lịch sử để ta tin và o khả năng kịch bản đó xảy ra.
Thế nhưng, Trần Thủ Độ không hà nh xử theo lối như vậy. Với vua Trần, ông là một bử tôi tuyệt đối trung thà nh. Khi Trần Cảnh tức vị, dùng Trần Thủ Độ là m Quốc thượng phụ, có quyửn xếp đặt mọi sự cai trị trong nước, ông nói: "Tôi dẫu là chú, nhưng không biết chữ, mà lại còn phải đánh đông dẹp bắc để trị giặc cướp. Chi bằng mời Thánh phụ (tức Trần Thừa, cha Trần Cảnh) quyửn tạm coi giữ quốc chính, đợi một và i năm nữa nước nhà thống nhất sẽ trao lại quyửn bính cho vua, cùng hưởng phúc thăng bình" (Sđd, tr 421). Như vậy, không phải ai khác, Trần Thủ Độ chính là người thiết kế mô hình hai vua cho triửu đình nhà Trần, một mô hình cai trị được rất nhiửu sử gia sau nà y ca ngợi.
Khi Trần Liễu, anh trai của Trần Cảnh (Trần Thái Tông) nổi loạn không thà nh, lẻn lên thuyửn em để xin hà ng, thì: "Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyửn nhà vua, tuốt gươm lên quát rằng: "Giết thằng giặc là Liễu". Nhà vua thấy thế vội và ng đẩy Trần Liễu ẩn và o trong thuyửn rồi bảo Thủ Độ rằng: "Phụng Kiửn vương đến xin đầu hà ng đấy". Miệng nói nhưng lấy mình che đỡ cho Trần Liễu. Thủ Độ giận lắm, vất gươm xuống sông nói rằng: "Tao thật là con chó săn, biết đâu anh em mà y hòa thuận với nhau hay trái ý nhau" (Sđd, tr 437).
Có thể nói, đây là đoạn văn phản ánh rất sinh động vử con người và tính cách của Trần Thủ Độ: lòng trung thà nh và sự bộc trực. à”ng tôn Trần Cảnh lên ngôi vua, ông quyết liệt bảo vệ cho sự tồn tại của ngôi vua ấy. Mọi thế lực đe dọa nó, cho dẫu đó là anh em cùng máu mủ ruột rà , với ông đửu là "giặc" và đửu cần phải "giết".
Tuy vậy trong trường hợp nà y Trần Thủ Độ không tính đến sức mạnh thiêng liêng và sự bửn chặt của những quan hệ huyết thống. Hà nh động "vất gươm xuống sông", rồi câu nói có cả giận lẫn dỗi ngay sau đó vừa thể hiện sự "ngớ ra" vừa cho thấy cái bộc trực đến mức cục mịch của ông Quốc thượng phụ (mù chữ) quyửn hét ra lửa. Có lẽ, đây là lần duy nhất trong đời - ít ra là căn cứ và o những gì biên niên sử cho biết - Trần Thủ Độ tử ra bất lực trước tình thế khách quan.
Với tư cách là một ông quan đầu triửu, Trần Thủ Độ nêu một tấm gương sáng vử tinh thần trách nhiệm trước quốc gia, dân tộc. Lần xâm lược Đại Việt thứ nhất của quân Nguyên Mông, trước thế giặc mạnh, được vua hửi, ông đã trả lời bằng một câu quả quyết: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo nghĩ đến chuyện khác cho phiửn lòng" (Sđd, tr 461).
Khi vua tử ra muốn cho anh ruột Trần Thủ Độ là An Quốc là m Tể tướng, ông đã từ chối, nói: "An Quốc là anh tôi, nếu bệ hạ nhận thấy là người hiửn tà i thì tôi xin từ chức để nhường cho anh tôi, nếu bệ hạ nhận thấy không phải là hiửn tà i thì không nên dùng, chứ nếu cả hai anh em đửu là m tướng thì đối với thiên hạ còn ra thế nà o?" (Sđd, tr 472). Chẳng lẽ, đây lại không phải là một bà i học lịch sử vử việc tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, theo năng lực thực tế chứ không theo sự thân sơ của các mối quan hệ?
Triửu Trần, ngoà i những chiến công chống ngoại xâm oanh liệt còn là một triửu đại có những thà nh tựu văn hóa rực rỡ. Các Hoà ng đế nhà Trần, từ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đửu là những triết gia, những thi sử¹ đứng ở đỉnh cao của văn hóa Đại Việt giai đoạn trung đại. Thế nhưng, một thực tế không sao phủ nhận được là những ông vua bử bử chữ nghĩa ấy đửu phải sâu sắc chịu ơn của Trần Thủ Độ - một người vốn không biết chữ, nhưng biết cách dựng lên một vương triửu!