Biết bao buổi chiửu thả bộ quanh hồ, thấy mình thật già u có khi bất chợt gặp những thảm lá và ng nhuộm kín lối đi; và i lần gặp "cụ Rùa" trong tò mò, háo hức; những tối mùa đông co ro áo mửng ngồi ngắm Tháp Rùa lung linh ánh điện từ một quán cà phê quen thuộc... Tháp Rùa với tôi tưởng như đã thân quen lắm, thế mà một ngà y tôi mới khám phá được một góc thật lạ của không gian huyửn ảo ngà y ngà y luôn nuốt trọn ánh mắt tôi.
Sắc xuân Hồ Gươm. Ảnh: Nguyệt ành |
Một đêm tháng Giêng, trời se lạnh và lất phất mưa bay. Cái ẩm ướt của đêm đầu xuân khiến Hồ Gươm được bao phủ bởi một lớp sương dà y, cảnh vật cà ng thêm huyửn ảo. Một cơ duyên may mắn đưa tôi lên con thuyửn gỗ nhử ra Tháp Rùa cùng mọi người chuẩn bị cho buổi lễ và o rằm tháng Giêng. Con thuyửn nhẹ nhà ng êm ả rời đửn Ngọc Sơn đến Tháp Rùa trong mà n khói sương tĩnh lặng. Cảm xúc lần đầu tiên đi giữa mênh mông Hồ Gươm huyửn thoại ngắm vùng lõi của Thủ đô thật diệu kử³. ành đèn dìu dịu từ con đường dạo ven hồ khiến tấm biển quảng cáo lớn của Ngân hà ng Đầu tư & Phát triển Việt Nam cao ngất phía xa cũng nhòe đi trong là n nước giăng giăng. Dù phải căng mắt nhìn chiếc đồng hồ lớn trên nóc nhà bưu điện tôi cũng chẳng biết mấy giử. Những vệt sáng từ dòng xe cộ loang loáng trên những con đường thân quen như dòng chảy liên hồi không ngừng nghỉ, như những sợi tơ đủ mà u sắc cuộn quanh những gốc cây tối sẫm đầy kử³ ảo. Bao âm thanh náo nhiệt thường ngà y dường như chỉ còn văng vẳng, mơ hồ đâu đó. Khung cửa sổ quen thuộc nơi tôi thường ngồi cũng nhòa nhạt trong mà u tối thẫm của những tán lá xung quanh, cả ngôi nhà 44 Lê Thái Tổ chỉ còn le lói một chút ánh đèn...
Đêm Hồ Gươm, Tháp Rùa đầy bí ẩn giữa không gian trầm lắng cho hồi tưởng một Thăng Long xưa. Những ngọn đèn chiếu sáng hắt lên "vừa đủ dùng", không quá yếu ớt như tưởng tượng của tôi khi đứng trên bử. Cử mọc kín xung quanh chân tháp, xanh thắm. Chạm chân và o bãi mượt mà , tôi thoáng ngất ngây bởi mùi hương dại ngai ngái. Và huyửn thoại vử vua Lê trả gươm báu cho thần Kim Quy lại hiện vử... Như một nhân duyên, tôi tìm được người quen cũ, anh là Nguyễn Lê Đại, cháu nội đời thứ 5 của ông Nguyễn Hữu Liên, thường được gọi là Bá hộ Kim - người được cho là đã xây dựng Tháp Rùa. Trong ngôi nhà cổ tại số 14 phố Hai Bà Trưng, đồ đạc dường như cách đây cả trăm năm, từ bộ bà n ghế gỗ chạm khảm đến những chiếc bình sứ bà y trong phòng khách, tất cả đửu toát lên mà u thời gian. Thắp nén hương thơm lên ban thử trang trọng tại phòng khách, nơi có ảnh một người đà n ông dáng người nhử, mặc áo và ng, ngồi oai vệ trên chiếc ghế như ngai thử, anh Đại nói: "Đó là cụ tổ nhà tôi, người đã xây dựng Tháp Rùa. Ban thử chính của cụ hiện ở 29 Hai Bà Trưng - nơi cháu trưởng chăm nom, gia đình tôi là ngà nh thứ nhưng cũng rước cụ vử đây".
Trong câu chuyện với vợ chồng anh Đại, tôi được nghe nhiửu câu chuyện vử người đã xây Tháp Rùa. Anh Đại bảo, có nhiửu người nghiên cứu vử tháp nà y đã lầm lẫn tên cụ tôi, chính xác cụ là Nguyễn Hữu Liên, hiệu là Chu ài, sinh năm 1832, mất ngà y mùng 10 tháng 7 âm lịch năm 1901, gia đình vẫn cúng giỗ hằng năm. Cụ là thương gia chuyên buôn đồ gỗ ở phố Hà ng Trống, đất đai rộng khắp cả phố Hai Bà Trưng bấy giử. Chị Hà kể, hồi mới vử là m dâu nhà họ Nguyễn, bố chồng chị thường bảo: "Nhà mình ngà y xưa thường ra Hồ Gươm rửa rau, múc nước đấy con ạ".
Trong cuốn sách "Hồ Hoà n Kiếm và đửn Ngọc Sơn", của nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc, ông đã kể chuyện vử Bá hộ Kim và quá trình xây dựng Tháp Rùa. Theo ông, với những luận cứ khoa học và có tính lịch sử, cùng việc nghiên cứu tỉ mỉ gia phả dòng họ Nguyễn do bác sĩ Nguyễn Thìn, một giáo sư sản khoa đầu ngà nh của Bệnh viện C Hà Nội, là cháu trưởng 5 đời của Bá hộ Kim cung cấp, thì ông Nguyễn Hữu Liên (tức Bá hộ Kim) có 5 người con trai và 3 con gái, con trưởng là ông Nguyễn Hữu Tiến, con thứ 5 là ông Nguyễn Ngọc Toản. à”ng Toản (1880-1936) lấy một bà vợ họ Đà m ở là ng Hương Mặc, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, sinh được 4 người con trai, con trai trưởng là Nguyễn Ngọc Vũ (1908-1932). à”ng Nguyễn Ngọc Vũ là Bí thư Thà nh ủy chính thức đầu tiên của Đảng bộ Hà Nội đã hy sinh trong nhà tù Hửa Lò năm 1932. Như vậy, ông Nguyễn Ngọc Vũ là cháu nội của Bá hộ Kim.
à”ng Bá Kim là một hà o mục của là ng Cựu Lâu (tức khu vực Trà ng Tiửn, Hà ng Khay hiện nay). Do có cộng tác với người Pháp trong những ngà y đầu chúng chiếm Hà Nội nên sau được là m Thương biện, vì vậy dân gọi ông là Thương Kim. Tuy là m việc cho chính quyửn khi đó, song ông có một cô con gái tên Khuê tham gia phong trà o văn thân chống Pháp. Vì vậy ông bị Pháp nghi kửµ nên cách chức rồi quản thúc. Cũng theo những tà i liệu ông Nguyễn Vinh Phúc thu thập được, Bá hộ Kim cùng với một số người đã bí mật chôn cất cho Tổng đốc Hoà ng Diệu, người đã tuẫn tiết sau khi quân Pháp hạ thà nh Hà Nội năm 1882.
Viết vử Tháp Rùa không chỉ có nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc, trước đó có nhà Nho Doãn Kế Thiện, một số người Pháp và gần đây là nhà nghiên cứu Nguyễn Dư hiện đang sống ở Pháp. Dù có những khác biệt từ quan điểm nghiên cứu nhưng từ cuối thế kỷ XIX đến nay, Tháp Rùa trở thà nh hình ảnh quen thuộc của người dân Hà Nội và người dân cả nước vì tháp nằm giữa Hồ Gươm - trung tâm của Hà Nội...
Tôi bước và o tầng 1 của tháp, diện tích không quá lớn, một ban thử lớn trên nửn xi măng đập ngay và o mắt tôi. Những bậc thang gỗ nhử nhưng chắc chắn, đã lên mà u đen bóng, dẫn chúng tôi lên tầng 2 và tầng 3, mỗi tầng đửu có một ban thử nhử, được sắp đặt gọn gà ng. Ban công tầng 2 không quá rộng nhưng cũng đủ để tôi ngắm cảnh vật xung quanh hồ. Đửn Ngọc Sơn vẫn trầm mặc nhưng cầu Thê Húc mà u son như bật lên dưới ánh đèn. Trong đêm mưa, với hà ng triệu tia sáng rắc xuống mặt hồ, cảnh vật cà ng trở nên hư hư, thực thực. Tôi có cảm giác thời gian ở đây như ngừng lại, dù xung quanh cuộc sống vẫn đang chuyển động...
Đêm trên Tháp Rùa, tôi nhớ đến câu chuyện kể xảy ra và o một đêm cách đây gần 70 năm, gắn với hình ảnh đầy khí phách của một chiến sĩ Hà Nội, người đã bao năm gắn bó với Tháp Rùa. Đêm 19-5-1948, một tổ chiến sĩ Công an Hà Nội dũng cảm bơi ra hồ Hoà n Kiếm và Nguyễn Trọng Quang, với sự yểm trợ của đồng đội đã cắm được lá cử đử sao và ng trên đỉnh tháp. Lần đầu tiên cử Tổ quốc tung bay lồng lộng giữa lòng Hà Nội kể từ ngà y Trung đoà n Thủ đô tạm thời rút khửi thà nh phố, lại đúng và o dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ, đã trở thà nh sự kiện gây tiếng vang lớn. Có người cắm cử nghĩa là Việt Minh vẫn hoạt động ngay giữa lòng địch. Tiếc thay, cả ba chiến sĩ cắm cử đửu lần lượt sa và o tay giặc. Chúng giam các anh tại Hửa Lò. Tại đây, Nguyễn Trọng Quang đã vẽ lá cử đử sao và ng và viết khẩu hiệu "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm" kín một bức tường lớn. Để bảo vệ đồng đội, một mình Nguyễn Trọng Quang đứng ra nhận tội. Cuối cùng Quang bị đưa đi biệt giam với tội danh đặc biệt nguy hiểm. Ngà y 12-6 năm đó, quân giặc đã hèn hạ bắn chết con người dũng cảm. Sau nà y với sự giúp đỡ của phóng viên Báo Công an nhân dân, mọi người trong đơn vị mới tìm ra gia đình Nguyễn Trọng Quang ở số 12 Bát Đà n, quận Hoà n Kiếm. Năm 2009, sau 61 năm hy sinh, Bằng Tổ quốc ghi công đã được trân trọng trao cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Trọng Quang...
Mùi hương thoang thoảng từ trong tháp bay ra như đưa tôi trở lại với quá khứ của một "Thăng Long bách chiến thà nh", một Thăng Long - Hà Nội văn hiến...