Năm 1962, thà nh Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Vị trí địa lý
Và o thời à‚u Lạc, Cổ Loa nằm và o vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoà ng. Sông Hoà ng (tức sông Thiếp) là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liửn sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình. Vử phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi.
Đó là vị trí nối liửn mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Qua con sông Hoà ng, thuyửn bè ngược lên sông Hồng là và o vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyửn ra đến biển cả, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu và o hệ thống sông Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam. Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm là ng, dân cư đông đúc, sống bằng nghử là m ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu vử đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyửn lực từ vùng Trung du bán sơn địa vử định cư tại vùng đồng bằng.
Cấu trúc Thà nh Cổ Loa
Thà nh Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thà nh cổ nhất, quy mô lớn và o bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thà nh lũy của người Việt cổ". Khi xây thà nh, người Việt cổ đã biết lợi dụng địa hình tự nhiên, tận dụng chiửu cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thà nh phía ngoà i, vì thế hai bức tường thà nh nà y có đường nét uốn lượn theo địa hình. Chất liệu chủ yếu dùng để xây thà nh là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thà nh được vững chắc. Các đoạn thà nh ven sông, ven đầm được kè nhiửu đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miửn khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dà y mửng khác nhau, nhiửu nhất là ở chân thà nh và rìa thà nh để chống sụt lở.
Thà nh Cổ loa
Thà nh Cổ Loa theo tương truyửn gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng hiện còn 3 vòng thà nh. Chu vi vòng Ngoại 8km, vòng Trung 6,5km, vòng Nội 1,65km, diện tích trung tâm lên tới 2km2. Thà nh được xây theo phương pháp đà o đất đến đâu, khoét hà o đến đó, thà nh đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoà i lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh và o thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4m-5m, có chỗ cao đến 8m-12m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m.
+ Thà nh Nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thà nh rộng từ 6m-12m, chân rộng từ 20m-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn và o tòa kiến trúc Ngự triửu di quy. Hiện nay, qua cổng là ng, cũng là cổng thà nh Nội là tới đình là ng Cổ Loa.
Theo truyửn thuyết thì đó là nửn cũ của điện ngự triửu, nơi bá quan hội triửu nên trong đình còn tấm hoà nh phi "Ngự triửu di quy". Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thử công chúa Mửµ Châu, trong am có một tảng đá hình người cụt đầu, là tượng Mửµ Châu. Qua am Mửµ Châu tới đửn Thượng, tức đửn An Dương Vương, tương truyửn là dựng trên nửn nội cung ngà y trước. Đửn nà y mới trùng tu, tôn tạo đầu thế kỷ XX, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đửn là di vật đời Trần. Trong đửn có tượng An Dương Vương bằng đồng. Trước đửn là Giếng Ngọc, tương truyửn là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng nà y mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần. Nơi đây, có đầy đủ các loại hình di tích: Đình, đửn, chùa, am, miếu. Trong đó hà m chứa biết bao giá trị văn hóa Việt Nam qua bao thế hệ.
+ Thà nh Trung là một vòng thà nh không có khuôn hình cân xứng, chu vi 6.500m, nơi cao nhất là 10m, mặt thà nh rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoà ng.
+ Thà nh Ngoại không còn hình dáng rõ rà ng, chu vi hơn 8.000m, cao trung bình 3m-4m (có chỗ tới hơn 8m).
Mỗi vòng thà nh đửu có hà o nước bao quanh bên ngoà i, hà o rộng trung bình từ 10m đến 30m. Các vòng hà o đửu thông với nhau và thông với sông Hoà ng. Sự kết hợp của sông, hà o và tường thà nh không có hình dạng nhất định, khiến thà nh như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ. Sông Hoà ng được dùng là m hà o thiên nhiên cho thà nh Ngoại ở vử phía Tây Nam và Nam. Phần hà o còn lại được đà o sát chân tường thà nh từ gò Cột Cử đến Đầm Cả. Con hà o nà y nối với hà o của thà nh Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch, và o vòng hà o của thà nh Nội. Thuyửn bè đi lại dễ dà ng trên ba vòng hà o để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoà ng và từ đó có thể tửa đi khắp nơi.
Theo truyửn thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyửn đi khắp các hà o rồi ra sông Hoà ng.
Giá trị của thà nh Cổ Loa
Trong cấu trúc chung của thà nh Cổ Loa còn có một yếu tố khác là m phong phú thêm tổng thể kiến trúc nà y.
Đó là những gò đất dà i hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thà nh hoặc nằm ngoà i thà nh Ngoại, được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn. Các ụ, lũy nà y được dùng là m công sự, có nhiệm vụ của những pháo đà i tiửn vệ, phối hợp với thà nh, hà o trong việc bảo vệ và chiến đấu. Vử mặt quân sự, thà nh Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm.
Với các bức thà nh kiên cố, với hà o sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triửu đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hà i hòa thủy binh cùng bộ binh, khi tác chiến. Vử mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thà nh Cổ Loa là một chứng cứ vử sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kử³ nà y, vua quan không những đã tách khửi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, xã hội đã có giai cấp rõ rà ng hơn thời Vua Hùng.
Vử mặt văn hóa, là một tòa thà nh cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thà nh một di sản văn hóa, một bằng chứng vử sự sáng tạo, vử trình độ kử¹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thà nh, gốm rải rìa thà nh, hà o nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hửa mai chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả là m nên nghệ thuật kiến trúc và văn hóa thời An Dương Vương.
Di vật khảo cổ Trên khu vực thà nh Cổ Loa, các nhà khảo cổ đã khai quật được nhiửu mộ cổ, hà ng vạn mũi tên đồng ba cạnh, rìu lườ¡i xéo bằng đồng, tiửn đồng, lườ¡i cà y, các vật dụng bằng gốm, đất nung và trống đồng Cổ Loa từ thời An Dương Vương. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được di tích nơi cư trú đã tồn tại trước khi xây dựng thà nh Cổ Loa thuộc buổi đầu thời đại đồ sắt./.