Nguyễn Văn Siêu sinh năm 1799, mất năm 1872 quê ở là ng Lủ tức là ng Kim Lũ (nay thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, ngoại thà nh Hà Nội), từ nhử đã chuyển ra sinh sống ở thôn Cổ Lương, phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương (nay thuộc và o khu vực phố Nguyễn Siêu và Ngõ Gạch, phường Hà ng Buồm, quận Hoà n Kiếm, Hà Nội).
Ngay từ nhử ông đã nổi tiếng là thần đồng nhưng con đường thi cử thì lận đận nên mãi mới đỗ cử nhân, 13 năm sau mới đậu Phó bảng. Là người có tà i nhưng ông cũng có nhiửu giai thoại "để đời" nhưng có lẽ được biết nhiửu nhất chính là chữ ông rất xấu, khi viết bà i thi lại phải viết vội cho kịp giử nên thừa thiếu nét lung tung hết khiến cho các quan cho trượt vì phạm trường qui.
Khoa thi năm Ất Dậu (1825) thi ở trường thi Hà Nội, ông phải lập mẹo: viết thật chậm, thật chân phương, rồi đọc đi soát lại kử¹ cà ng, mặc cho trống giục. Sĩ tử đã vử hết thì ông mới xong bà i, rồi cứ nằm lì ở trong lửu. Khi lính đi soát lửu thì ông vử kêu đau bụng. Bấy giử có quan trường Nguyễn Hà m Minh biết tiếng ông Siêu là người có tà i nên đã đứng ra "bảo lãnh" bà i thi cho ông. Nhử thế ông đã đỗ à Nguyên tức Cử nhân hạng hai.
Đà i Nghiên xưa
Khoa thi Hội Mậu Tuất (1838) cũng vậy, đáng lẽ ông đỗ Tiến sĩ nhưng vì chữ xấu nên phải tụt xuống Phó bảng. Dân gian còn có câu thơ: Thần đâu mà chữ xấu như ma/ Gà bới cho người ngó chẳng ra...
Tuy nhiên ông có tà i văn chương, cùng với Cao Bá Quát viết chữ đẹp khiến cho cả vị vua triửu Nguyễn “ vua Tự Đức vốn có tiếng thích văn học ca ngợi Văn như Siêu Quát vô Tiửn Hán. à”ng có mối quan hệ bạn bè mật thiết với Cao Bá Quát khi mở trường dạy học tại nhà riêng ở Hà Nội là m kế sinh nhai.
Sau khi thi đỗ, ông từng giữ một số chức quan và từng được cử là Phó sứ đi Trung Quốc. Tuy nhiên, ông không có chí là m quan nên cáo bệnh vử nghỉ ở nhà dạy học, viết sách lấy hiệu là Thọ Xương cư sĩ. Lúc nà y ông dựng thêm một ngôi nhà vuông là nơi bình văn gọi là Phương Đình vừa là trường học vừa là tên hiệu của ông.
Nguyễn Văn Siêu không chỉ có tà i thơ văn mà còn có kiến thức sâu rộng vử triết học, địa lý, kiến trúc. à”ng đặc biệt quan tâm đến việc bảo tồn các di tích văn hóa Thăng Long. Chính ông được hội Hướng Thiện do Vũ Tông Phan là Hội trưởng, ủy nhiệm đứng ra tu bổ đửn Ngọc Sơn ở Hồ Hoà n Kiếm năm 1865, xây dựng đình Trấn Ba (đình chắn sóng) ở phía trước đửn, bắc cầu Thê Húc (cầu đậu nắng ban mai) để đi từ bử hồ phía đông và o đửn, dựng lầu Đắc Nguyệt (lầu được trăng), lại dựng ở cổng đửn một Tháp Bút, có khắc ba chữ Tả thanh thiên (viết lên trời xanh), và một Đà i Nghiên để biểu dương tinh thần hiếu học của người dân Việt.
Tháp Bút nay
Tháp Bút dựng trên một cái gò chất đầy đá hộc, gò nà y tượng trưng cho 1 ngọn núi, tên là Độc Tôn. Trong bà i Bút Tháp chí do Nguyễn Văn Siêu soạn năm 1865 được khắc ngay trên thân tháp: "Trên đỉnh núi Độc Tôn có Tháp Bút năm tầng. Tháp nhử núi mà cao thêm, núi nhử tháp mà truyửn mãi. Ở đầu cầu Thê Húc là Đà i Nghiên, nghiên được đặt trên tòa cửa đầu tiên dẫn và o đửn, là một nghiên mực bằng đá xanh đẽo tạc theo hình nửa quả đà o, cắt ngang theo chiửu dọc, khoét lõm.
Đặc biệt trên thân của nghiên có khắc một bà i minh mà tác giả lại cũng là Nguyễn Văn Siêu. Chỉ có 64 chữ (Hán) nhưng ý tứ rất hà m súc, tạm dịch: "Xưa lấy hốc đất là m nghiên, chú giải Đạo Đức kinh, nghiửn ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu. Từ đá tách ra là m nghiên, chẳng có hình dáng. Không vuông không tròn, dùng và o mọi việc thật kử³ diệu. Không cao không thấp, ngôi ở chính giữa. Cúi soi hồ Hoà n Kiếm, ngửa trông ngọn Bút đá. ử¨ng và o sao Thai mà là m ra mọi biến đổi. Ngậm nguyên khí mà mà i hư không". Hai biểu tượng Tháp Bút và Đà i Nghiên đã trở thà nh quen thuộc đối với người dân Hà Nội, nó là sự ca ngợi tà i trí văn chương cao vời của nhân tà i nước ta tại nơi trung tâm văn hiến của đất nước...
Phương Đình Nguyễn Văn Siêu không chỉ là Thần Siêu văn học, mà còn là một thầy giáo, một nhà văn hóa có nhiửu công lao thiết thực đối với Thăng Long “ Hà Nội. Công đức của Nguyễn Văn Siêu đối với các công trình văn hóa “ lịch sử của Thăng Long còn được nhân dân ghi nhớ đời:
"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ/Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn/Đà i Nghiên, Tháp Bút chưa mòn/Hửi ai xây dựng nên non nước nà y..."