Từ đường Điện Biên Phủ cắt ngang đường Hùng Vương đến phố Ngọc Hà.
Đây là phần đất thôn Phụ Bảo, tổng Yên Thành, huyện Mỹ Thuận cũ. Tới giữa thế kỷ XIX, thôn này đã hợp nhất với thôn Thanh Ninh và mang tên mới là Thanh Bảo. Ở quãng giữa phố có một ngôi chùa kiến trúc độc đáo, đó là chùa Một Cột (Diên Hựu).
Phố Chùa Một Cột thời Pháp thuộc là đường số 155 (voie N 155) ........ năm 1933 đạt tên gọi là phố Ê-li Grô-lô (rue Elie Groleau), năm 1945 đổi tên thành phố Một Cột. Năm 1949 đổi tên thành phố Chùa Một Cột cho đến nay. Ban đầu phố này chỉ dài 450m, từ đường Điện Biên Phủ đến phố Ông Ích Khiêm. Năm 1975, phố này được mở dài thêm đến phố Ngọc Hà. Nay đoạn cuối phố này nằm trong khu Bảo tàng Hồ Chí Minh, một bên là thảm cỏ vườn hoa, thuộc quảng trường Ba Đình.
Đất thôn Phụ Bảo, tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận cũ.
Nay thuộc phường Điện Biên, quận Ba Đình.
Chùa Một Cột hình vuông, mỗi chiều 3 mét, mái cong, dựng trên cột đá hình trụ đường kính 1 mét 20, cao 4 mét (chưa kể phần chìm dưới đất) gồm 2 trụ đá chồng lên nhau, gắn rất khéo, thoạt nhìn thì tưởng là một khối liền. Tầng trên là một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn Kiên cố đỡ cho ngôi chùa đứng bên trên, giống như một đóa hoa sen vươn thẳng lên từ mặt hồ nhỏ hình vuông có xây lan can bằng gạch chung quanh. Một chiếc thang xây dẫn lên chùa. Trên cửa chùa có biển đề "Liên Hoa đài" (đài hoa sen) gợi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây dựng chùa. Vị sư chép rằng: "Vua Lý Thái Tông chiêm bao mơ thấy Phật Quan Âm đặt vua lên toà sen. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy hỏi các quan. Có người cho là điềm không lành. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa Hồ, làm toà sen bên trên giống như đã thấy trong mộng. Rồi cho các sư chạy đàn tụng kinh. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu". Sử liệu cho biết chùa này xây vào khoảng tháng 10 năm Kỷ Sửu tức là tháng 9/1049. Văn bia tháp Diên Linh ở chùa Đọi (Duy Tiên, Hà Nam) soạn năm 1121 tức là 72 năm sau khi xây xong chùa Một Cột có tả chùa này (Một Cột) như sau: "...Đào hồ Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở hoa, đóa hoa sen nghìn cánh, trên sen dựng toà điện màu xanh, trong điện đặt pho tượng vàng tài năng nhân đức (tức tượng Quan Âm). Vòng quanh Hồ là dãy hành lang; lại đào ao Bích Trì mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sau cầu, đằng trước, hai bên tả hữu, xây tháp lưu ly...".
Như vậy, quy mô chùa Một Cột thời Lý lớn hơn ngày nay về cả kiểu dáng, cả những bộ phận hợp thành cũng phong phú hơn nhiều.
Nhưng tháp này không còn vì chùa đã bị nhiều lần sửa chữa qua những biến cố của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Gần đây nhất, ngày 11/9/1954, trước khi rút lui, Pháp đã cho nổ mìn phá hủy chùa này. Sau khi tiếp quản, Chính phủ đã cho làm lại nguyên vẹn như trước và đến tháng 4/1955 thì hoàn thành. Năm 1958, Hồ Chủ tịch sang thăm Ấn Độ. Tổng thống Ấn Độ đã tặng Bác một cây bồ đề. Về nước, Bác đã cho trồng tại khu chùa nay.
Phía ngoài cây bồ đề ấy còn có một ngôi chùa mà trên cửa tam quan có ghi ba chữ "Diên Hữu tự". Chùa này thực ra mới làm vào khoảng thế kỷ XVIII nhưng lấy tên gọi ban đầu của chùa Một Cột. Tương truyền chùa này làm trên mảnh ruộng có đặt cái chuông Quy Điền. Nguyên là vào tháng 2 năm Canh Thân (1080), vua Lý sai đúc chuông cho chùa Diên Hựu (tức Chùa Một Cột). Chuông rất lớn, vì được liệt vào một trong bốn công trình đồ sộ của nước ta xưa (An Nam tứ khí: tháp Báo Thiên, tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, vạc chùa Phổ Minh và chuông này). Để treo chuông, lúc đó đã phải cho dựng một toà gác chuông cao 8 trượng (tức khoảng 24 mét). Nhưng đúc xong chuông đánh lại không kêu, cho nên phải đem bỏ ngoài ruộng cạnh chùa. Ruộng này thấp lại có nhiều rùa. Do đó có tên là chuông Quy Điền (chuông ruộng rùa). Năm 1426, giặc Minh ở thành Đông Quan (Hà Nội) bị nghĩa quân vay chặt. Chúng đã phá tháp Báo Thiên và chuông Quy Điền để lấy đồng đúc vũ khí.