Đất dự án sân golf không chỉ dà nh cho golf
Thạc sĩ Đặng Văn Đam - Hội Môi trường xây dựng Việt Nam cho biết, theo thống kê hiện nay ở Việt Nam có khoảng 143 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh sân golf, trong đó có 77 dự án cấp phép đầu tư và 66 dự án được cấp chấp thuận chủ trương đầu tư. Nhưng trong số đó, chỉ có 13 dự án là kinh doanh sân golf đã được cấp phép đầu tư và 8 dự án được duyệt chủ trương đầu tư.
Cũng theo ông Đam, mặc dù quy định của pháp luật vử đầu tư, cơ quan cấp phép chủ trương đầu tư đối với các dự án là cơ quan chịu trách nhiệm vử quyết định của mình và giám sát tiến độ triển khai dự án, nhưng số lượng dự án được cấp phép đầu tư kinh doanh sân golf chiếm gần 10%. Còn lại các dự án được cấp phép là các dự án phức hợp khu đô thị, khu du lịch và khu vui chơi giải trí.
Tính theo tổng số diện tích chiếm đất của các dự án sân golf trong cả nước thì có khoảng 71% diện tích đất có mục đích không phải sân golf (như biệt thự nhà vườn, đô thị, khu nghỉ dườ¡ng, khu du lịch, ...). Mục đích chủ yếu đối với các nhà đầu tư dự án sân golf nà y muốn thực hiện là sớm thu hồi vốn và nâng cao lợi nhuận từ việc đửn bù giải phóng mặt bằng với mức đửn bù cho đất nông nghiệp và bán ra với giá cao.
Thượng tá Phạm Mạnh Thông - Phó trưởng phòng 3, Cục Cảnh sát Môi trường cho biết, các nhà đầu tư lợi dụng hình thức đầu tư dự án sân golf để được cấp phép với diện tích đất rất lớn (trung bình khoảng trên 200ha cho một dự án, thời gian sử dụng đất là 30 năm hoặc 50 năm) và được hưởng mức thuế thấp, sau đó sử dụng và o các mục đích khác như kinh doanh nhà hà ng, biệt thự, khách sạn bất động sản vv ...
Ở tại nhiửu địa phương, có hiện tượng một số dự án đầu tư xây dựng sân golf chiếm diện tích đất nông nghiệp rất lớn, như các dự án chiếm nhiửu đất trồng lúa của dự án sân golf xã Sà i Sơn (Sơn Tây), dự án sân golf huyện Thủ Thừa (Long An), sân golf Văn giang (Hưng Yên), dự án sân golf Lương Sơn (Thái Nguyên), hoặc đất trồng cây công nghiệp như sân golf tại Bảo Lộc (Lâm Đồng), nhiửu sân golf đã được cấp chủ trương đầu tư từ nhiửu năm nay nhưng chưa có dấu hiệu triển khai đầu tư như dự án đầu tư sân golf tại Quảng Bình của Công ty Đông Dương, dự án đầu tư xây dựng sân golf tại tỉnh Hòa Bình của công ty cổ phần San Nam...
Việt Nam có khoảng 143 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh sân golf. (Nguồn Internet)
Bên cạnh đó, có những dự án đử suất quy mô xây dựng rất lớn nhưng lại thực hiện thu hẹp dự án sân golf hoặc giảm trừ suất đầu tư như sân golf Đạ Ròn tại Lâm Đồng đưa ra suất đầu tư là 18 triệu USD/750 ha, sân golf Bảo Lộc 18triệu/254 ha, ...
Sân golf ảnh hưởng tới môi trường sống
Theo đánh giá sơ bộ vử thực trạng tác động môi trường tự nhiên kinh tế xã hội các dự án đầu tư xây dựng sân golf ở Việt nam của Nhóm nghiên cứu Hội Môi trường xây dựng Việt Nam “ Tổng hội Môi trường Xây dựng, thì vấn đử ô nhiễm môi trường từ các hoạt động của sân golf đang trở thà nh một nỗi lo thường trực cho chính những người dân nơi có sân golf.
Theo dẫn chứng, trong hoạt động của sân golf, với mỗi hécta sân golf người ta phải sử dụng khoảng 1,5 tấn hóa chất mỗi năm dùng để tưới cử, tức là gấp 3 lần so với một khu canh tác nông nghiệp cùng diện tích. Đó là nguyên nhân dẫn đến khả năng gây ô nhiễm môi trường tự nhiên do hóa chất đổ xuống trôi theo đường dẫn của nước tưới, nước mưa gây ô nhiễm môi trường nước, đất và không khí, ...
Nhìn chung đây là các chất độc có độc tính cao đối với sâu bọ và động vật máu nóng. Mặt khác, do kém tan trong mỡ, dễ bị thủy phân nên chúng khó tích lũy trong cơ thể và khó gây tác hại lâu dà i vử mặt di truyửn, đột biến, đây chính là nguy cơ tiửm ẩn tác động đối với sức khửe công nhân lao động trên sân golf, cộng đồng dân cư khu vực dự án và cả những người tham gia chơi golf ông Đam cho biết.
Xây dựng sân golf là một không gian xanh
Theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Truyến - Viện Xã hội học, xuất phát từ nhu cầu phát triển bửn vững, các nhà xã hội học và các nhà nghiên cứu quốc tế vử quy hoạch đô thị cho rằng, sự phát triển sân golf, một trong các hình thức thể thao và giải trí gắn với sự tái tạo các không gian xanh, đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của các đô thị hiện đại, những đầu tà u thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước, cũng là một sự lựa chọn cần thiết và hợp lý.
Nên nhiệt đới hoá cảnh quan sân golf theo khí hậu và phong cảnh Việt Nam. (Nguồn Internet)
Tiến sĩ Nguyễn Đức Truyến cũng cho biết thêm, sân golf với tư cách là không gian xanh không chỉ đem lại cảnh quan hay tính thiên nhiên cho con người đô thị mà bản thân nó cũng cần phải được tạo ra và chăm sóc theo hướng bảo tồn tính đa dạng sinh học. Sân golf cần được chăm sóc bằng phương pháp sinh thái học, chỉ sử dụng thuốc trừ sâu và hoá chất trong phạm vi sự an toà n sinh thái cho phép để tránh sự ô nhiễm môi trường tại chỗ và các khu vưc môi trường xung quanh.
Nói vử những giải pháp đánh giá thực trạng tác động môi trường do hoạt động của các dự án đầu tư xây dựng sân golf, ông Đam cho biết, cơ chế quản lí và giám sát các chương trình bảo vệ môi trường đối với các dự án đầu tư xây dựng sân golf của các nhà quản lí chưa đúng mức, hạn chế vử nghiệp vụ chuyên môn, thiếu thủ tục pháp lí hướng dẫn điửu tra.... sẽ dẫn đến khả năng gây ra những tác động tiêu cực không lường trước được đối với môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội và sức khửe cộng đồng.
Theo ông Đam cần có những nhiên cứu đánh giá thực trạng và kiến nghị các giải pháp kử¹ thuật nhằm hạn chế hiệu quả các tác động tiêu cực. Trong triển khai, hoạt động của các dự án đầu tư xây dựng sân golf cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lí, cơ quan chuyên môn, chủ đầu tư và toà n thể cộng đồng ...
PGS Nguyễn Hồng Thục “ Viện Nghiên cứu định cư cho biết, chúng ta nên nhiệt đới hoá cảnh quan sân golf theo khí hậu và phong cảnh Việt Nam. Vử nguồn gốc, sân golf là sự xuất khẩu mô hình kiến trúc phong cảnh ôn đới ở Anh. Cảnh quan mượt mà của sân gôn không có gì xa lạ ở vùng nông nghiệp tại các nước ôn đới à‚u Mử¹.
Điửu gì xảy ra khi bưng nguyên cảnh quan ấy sang xứ nóng. Những đồi cử chỉ là một sự đơn giản hoá thiên nhiên nhiệt đới, là m mất đi vẻ đẹp đa dạng vốn có của nó.
Đối với thẩm mử¹ á đông, vẻ đẹp của sân gôn có thể trở nên đơn điệu và không tự nhiên. Nắng nóng sẽ thiêu cháy cử, mưa sẽ xối mòn đất cát, đòi hửi nỗ lực chăm sóc tưới bón bảo trì lớn hơn nhiửu lần. Việc đi dạo trong nắng nhiệt đới cũng không hử dễ chịu như nhìn trong phim ảnh. Cái cao hứng được hoà mình, bay lượn trong thiên nhiên nay dễ biến thái thà nh nhại cảnh hết sức tầm thường.
Chính vì vậy sân gôn ở Viêt Nam cũng phải được nhiệt đới hoá và Việt Nam hoá để kết hợp với công viên rừng nhiệt đới, công viên khu dân cư, đô thị và có tiếng nói nghệ thuật hợp với người Việt. Để sân gôn là một thà nh phần cảnh quan của chúng ta.