Kinh thà nh Thăng Long thời phong kiến có sự tổ chức theo quy chế hà nh chính từ phường rồi huyện trong đó có ban Hà ng Giáp huy động nhân lực trong phường và o một việc chung trong đó bao gồm cả việc đưa đám một người trong phường vừa mất. Đám tang hồi đó chỉ gồm một bộ đòn trên đặt quan tà i và một bộ kèn trống của phường do những trai tráng khiêng từ nhà đến nơi chôn cất. Đồ phúng viếng đửu để lại nhà do đó người nghèo khó hay già u sang khi mất cũng chỉ được đưa tiễn bằng bộ đòn và bộ kèn trống ấy. Chỗ khác nhau chỉ là số người đi đưa đám đông hay ít, sang hay khó.
Từ khi Hà Nội trở thà nh nhượng địa của Pháp năm 1888 thì chúng bãi bử hết cơ cấu thôn phường cũ và Hà ng Giáp cũng theo đó mà mất đi, kể cả bộ phận đòn khiêng và bộ kèn trống đưa tang. Từ đó xuất hiện thêm hai nghử mới: nghử cho thuê đòn và nghử kèn trống đám ma. Những nhà tư nhân nà y lập nên một phố mới mang tên là Hà ng Đòn nay và o đoạn cuối phố Lê Thái Tổ tới ngã tư Trà ng Thi “ Bà Triệu.
Đời sống xã hội từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có sự phân hóa rõ rệt. Người già u thì cà ng già u, người nghèo thì cà ng nghèo và nó còn thể hiện rõ hơn cả trong những đám tang.
Một đám tang của một gia đình trung lưu hồi đó thường có 5 lá cử ngũ sắc đi mở đường. Tiếp sau là đội kèn trống từ 2 đến 3 người, và i ba bức trướng hay câu đối của thông gia, bạn bè thân thuộc, rồi đến chiếc long đình do 4 người khiêng rước ảnh người quá cố. Sau long đình là đòn quan tà i từ 4 đến 8 người khiêng, trên úp chiếc nhà táng bằng tre nứa dán giấy sơ sà i. Sau linh cữu là con cháu, họ hà ng, bạn hữu đi đưa. Vợ hay chồng người quá cố, con trai, con gái vận áo đại tang bằng vải xô, thả gấu, chít khăn tang. Con trai đội trên đầu một và nh rơm chống gậy tre (nếu là bố), chồng gậy vông (nếu là mẹ). Nếu có con trai nà o vắng mặt thì treo mũ rơm và gậy ở đòn quan tà i. Thông thường các đám tang từ trong phố đi ra đửu dừng lại ở một chỗ thích hợp để mọi người đi đưa bận công việc quay vử. Những người nà y đửu đến bái biệt trước khi ra vử và nhận được sự đáp lễ của gia chủ.
Một đám tang xa hoa của quan
Đám tang trên được xem là đủ nghi thức truyửn thống, không phô trương, đỡ tốn kém. Tuy nhiên khi phải chứng kiến một đám tang của gia đình khá giả thì mới thấy rõ được sự phân tầng trong xã hội.
Dẫn đường vẫn là 5 lá cử ngũ sắc, sau đến là phường thanh la với chiếc trống to như trống đình là ng do 2 người khiêng, một bộ thanh la giập và o nhau tạo thà nh tiếng kêu kim khí vang xa. Những người trong phường nà y vừa đi vừa diễn khúc Tùng dinh, tùng dinh cốt để lôi cuốn người tới. Rồi phường kép hát trên chục nhân vật mũ áo tướng văn tướng võ, mặt mà y son phấn vừa đi vừa múa may, điệu bộ như đang diễn tuồng. Chưa hết, gia đình khá giả còn thuê cả phường một dà n nhạc phương Tây toà n kèn đồng, trống đồng, bộ thanh la lớn và ng chói. Để khửi lẫn lộn, cứ phường nhạc ta vừa đánh xong một bà i thì dà n nhạc Tây lại tiếp nối. Mọi người trong phố đang đi đặc biệt là trẻ con à o à o bám theo vừa xem kép hát diễn trò vừa nghe nhạc Tây ta hò la inh ửi.
Phía sau dà n nhạc là long đình để tượng Quan à‚m, tiếp đó là mấy chiếc xe kéo chở mấy nhà sư mũ ni, cà sa ngồi ngay ngắn cầm trà ng hạt, tụng niệm lẩm nhẩm rồi các vãi đi chân đất, xếp hà ng đôi đi sau. Đám tang chính thức sau đám rước Phật, bắt đầu bằng phường bát âm có đủ 8 người với 8 nhạc cụ. Sau bát âm đến một rừng những câu đối, trướng ngót trăm chiếc đủ mà u sắc với chữ Hán to, nhử thường cắt bằng nhung the đen. Sau đến là sáu bảy bà n cỗ được đậy lồng bà n thưa nhìn rõ được cả xôn, lợn quay cả con và oản chuối.
Theo tục lệ cũ ở Thăng Long “ Hà Nội, thông gia phúng viếng nhau bằng một con lợn quay cả con. Người đứng xem cứ đếm có bao nhiêu con lợn quay thì biết ngay người quá cố có bao nhiêu con lập gia đình.
Ngay sau là long đình rước ảnh người quá cố, nếu đó là quan có phẩm tước thì sẽ là hình đội mũ cánh chuồn, cầm hốt, đi hia, nếu không thì mặc áo thụng có đủ cân đai.
ào quan được đặt trên một bộ đòn tám hoặc mười sáu người khiêng và thường được là m bằng những loại gỗ quý và được phủ lên bởi tấm lụa đử có dải hoặc ít ra cũng dán giấy đử. Che áo quan bằng nhà táng có mui luyện, và thường dùng là nhà táng hai tầng mái.
Đoà n hát trong đám tang
Sau linh cữu là con cháu, họ hà ng, bạn bè thân quen chưa kể đến gia đình đó có thể bử tiửn thuê người khóc mướn giả là m con cháu gà o khóc thê thảm suốt dọc đường để tử lòng thương tiếc người quá cố. Một đám tang như vậy phải kéo dà i hà ng kilômét ở trên đường. Rõ rà ng qua đám tang có thể thấy được sự khác biệt trong đời sống của gia đình khá giả và gia đình bình dân ở Hà Nội xưa.
Trong dịp cúng 49 và 100 ngà y tính từ sau khi người quá cố mất, gia đình nghèo chỉ có vợ hoặc chồng cùng các con cháu, họ hà ng dâng lên ban thử người quá cố bát cơm, quả trứng, đĩa muối còn đối với gia đình già u có thì cũng khác biệt. Đối tượng được mời đến rộng hơn, có bữa cơm chay để chiêu đãi đặc biệt đối với nhà trọc phú thì có đủ mâm cỗ mặn ngọt người ra kẻ và o tấp nập suốt đêm.
Sau nà y, những đám tang mặc dù có sự biến đổi theo thời gian nhưng tổ chức một đám tang là việc chia buồn với gia đình người quá cố, những việc là m tổ chức tang ma linh đình không chỉ khiến nhiửu người bà n tán mà có lẽ cũng không khửi là m chạnh lòng người quá cố.