Vử mặt sinh học thì tôi không thích anh là m con gọng vó. Vử mặt xã hội thì nhà văn đã đúng. Gọng vó là loà i côn trùng thân nhử bé, mửng mảnh nhưng lại có bộ tay chân dà i nghêu, loằng khoằng, ưa sống trên dòng nước chảy nhiửu cây cối um tùm. Chúng thường đậu (hay đứng yên) rất tà i tình ở tại một vị trí so với bử đất. Thỉnh thoảng gọng vó lại chạy nhảy như bay, dồn đuổi nhau như lướt trên mặt nước đang chảy.
Sau đấy, chúng lại đứng yên hoặc thả trôi theo dòng nước vử yên lặng ở vị trí cũ. Từ quan sát nà y, tôi xin tâm đắc với ĐHN vử mặt vận động xã hội. Có lẽ như thế mà sau hai tập thơ đầu đời, ĐHN tạm "ly thân" với thơ để chuyển sang sáng tác văn xuôi.
Hơn mười năm qua, anh đã công bố hai tập truyện thiếu nhi, ba cuốn tiểu thuyết cho "người lớn". Bằng những nỗ lực lao động văn chương nghiêm túc và óc sáng tạo nghệ thuật "thiên phú", các tác phẩm của ĐHN đã xâm nhập được và o đời sống văn chương đương đại nước nhà . Những thà nh quả sáng tạo ấy đã đưa ĐHN đứng và o đội ngũ những Nhà Văn Việt Nam hiện đại - năm 2004.
Tháng 7 năm 2006 nhà văn ĐHN bất ngử công bố tập thơ Dấu nối thênh thang (DNTT) như là một hà nh động trở vử nguồn, hay như là một ví dụ vử sự nặng lòng với thơ. Có thể nhận thấy ngay DNTT là "tia nắng thơ được hoà i thai từ tầm - nửn văn xuôi đang độ sung mãn, đang độ Nhân nhân lên trong ngơ ngác tiếng gà - như ý thơ anh bộc bạch.
Đã rất nhiửu năm ĐHN là m công tác phụ trách văn phòng và biên tập tại Hội văn học nghệ thuật tỉnh Là o Cai. Song, không vì thế mà tập thơ mới của anh bị lút đi bởi những rặng núi trùng điệp và những trở ngại tỉnh lẻ xa khuất. DNTT là tập thơ đẹp, nửn nã ngay từ mặt bìa và cách trình bà y cuốn sách. Với số bà i, số trang vừa độ quen thuộc nhưng khi thư thả đọc chậm từng bà i người đọc sẽ nhận ra một tâm trạng thơ, một tình cảm thơ đạt độ chín, độ tinh và độ từng trải việc đời - việc nghử.
Nhà văn ĐHN đã qua tuổi 50, anh đã thấu hiểu: "Nhìn mặt trời trước mặt, mặt trời sau lưng biết rửn rợn tháng năm, rửn rợn con đường, rửn rợn con tà u chạy một chiửu, đi, đậu cũng một chiửu - mãn kiếp" - (Từng đốt cuộc đời). Đến chơi nhà ông bạn già , thấy đứa cháu nhử lau mãi mà không sạch mặt bà n kính để ông tiếp khách, nhà văn nhìn bạn và nhớ tới bà i viết Cái khăn lau của nhà văn Trần Quốc Tiến, liửn ngộ ra: "à”i cái khăn lau, mặt bà n, vết bẩn/ Cứ bầy ra thế cuộc hà ng ngà y" - (Cái khăn lau). Cũng tâm trạng cả nghĩ như vậy, nhà văn đã chứng kiến và chia sẻ "Dư âm nghiệt ngã" từ cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân ta một thời:
Đom đóm lập loè ma trơi / Thót lòng ngỡ hồn bạn gọi
Lộp độp mưa rơi trên mái / Giật mình thảng thốt bom rơi
... Giữa đời không còn tiếng súng / Mà sao động mãi tháng năm.
Và ở bà i Anh tôi:
Soi mình và o chén rượu / Miệng chén bỗng giống hố bom
Những váng rượu hệt váng dầu trôi nổi / Anh rùng mình phấp phửng dòng máu giật trong người / Đêm chị sinh đứa con đầu lòng/ Gió rin rít tưởng bom ngoà i chiến địa / Cả nhà kinh hoà ng quặn thắt.../ Đứa bé sinh ra không thể thà nh người".
Bằng những câu thơ tả thực, giản dị như lời nói vậy, nhà văn đã bình tâm biểu cảm được những xúc cảm thổn thức đến nao lòng của từng cá nhân, gia đình được hoà - thấm thà nh tâm trạng day dứt, ẩn ức, thấm đẫm nhân tính xã hội. Đây là một sắc thái tình cảm trầm - buồn và nhạy cảm riêng của người Việt Nam ta.
Nhà văn Đoà n Hữu Nam và nhà thơ Phạm Hồng Thạo tại buổi giao lưu (minh họa ảnh internet)
Sự cả nghĩ vử đời sống thực tại và tình nhân ái, độ lượng trong cốt cách sống (nói to tát lên là sự tư duy theo chủ nghĩa nhân văn - nhân đạo sâu sắc) phải thường trực trong nhà văn như một thuộc tính (dân gian gọi là đức tính hay văn tính). Tôi luôn tâm niệm điửu nà y và nhận thấy đúng ở rất nhiửu nhà văn, nhà thơ và tất nhiên là cả ĐHN.
Trong nhiửu cung bậc tình cảm của người miửn núi cao, nhà văn phát hiện chi tiết được một sắc thái đặc biệt - sự ngườ¡ng vọng tình yêu thuở đầu đời: "Ngà y mai vợ chồng mình lướt qua nhau tìm vử ngà y xưa / Đằng đẵng một năm qua đi để có một ngà y gặp gỡ". Tại sao vợ chồng lại lướt qua nhau? Hoá ra, phong tục người H™mông cho phép thế. Mỗi năm có một lần phiên chợ tình Khau Vai lại họp dà nh cho những người yêu cũ gặp nhau:
"Chợ Khau Vai! / Là ngọn gió thổi buốt lưng ta dẫu trước mặt vẫn rực hồng bếp lửa / Là hòn than ủ trong lòng mỗi khi tuyết xuống, mưa tan" - (Ngà y mai là chợ Khau Vai). Đồng bà o các dân tộc vùng cao phần nhiửu sống trong thiếu thốn, lam lũ, chật vật là thế, mà đời sống tinh thần thường trầm tĩnh, tự tin, vui vẻ, điửm nhiên. Nhà văn ĐHN tiếp tục mạch khám phá mặt ưu trội của văn hoá sinh hoạt cộng đồng vùng cao từ các phiên chợ đến những nghi lễ, hội hè:
"Trăm ngọn đuốc đổ dồn vử sân chợ / Đêm chật lại bởi vòng xoè rộng mở / Tiếng Khắp ngân tha thiết nao lòng" - (Đêm xoè xuân). Ở bà i Bếp lửa nhà mình, bộc lộ trầm tư một nốt trầm tình cảm cha - con thao thiết, gan ruột:
"Ngà y mai con vử xuôi/Cha không thể lấy cây rừng rà o con đường con bước/Không thể lấy ngọn lửa bao đời soi góc bếp/Soi cùng con đi tiếp chặng đường đời
... Lòng cha như chỉ rối/Người vùng rừng hay nhìn xuống đất tìm chỗ đặt bà n chân/Liệu con có nhìn xuống gốc/Khi hoa thơm trái chín đầy cà nh
... Con hãy nhớ ở vùng cao hẻo lánh/Bếp lửa cùng cha thao thức trông chử...
Còn đây là lời "Thưa mẹ" của một cô gái Mông khi đời sống vùng cao quá nghèo túng đã phải bử học sớm để đi lấy chồng. Nhưng đây là một phát hiện quý - hiếm của ĐHN. Anh đã trần thuật kử¹ lườ¡ng một cách tinh tế niửm thổn thức tận lòng, thà nh thật và trong sáng của cô gái với mẹ:
"Mười ba tuổi con là m dâu họ Lý/ Đo nương nhà người bằng nước mắt rơi rơi/ Mười bốn tuổi con đã là m thiếu phụ/ Ngồi tẽ ngô, tẽ tơi tả đời mình
Mười lăm tuổi cõng con vử thăm mẹ/ Như trâu be đeo ách giữa nương cằn
... Con như ngọn đèn cạn dầu, bấc ngắn/Như khúc củi tươi trong bếp nhà người
... Nghe mẹ, con vử là m nương nhà người không có chỗ cho cử mọc/Con vử là m chuồng nhà người chật chỗ buộc trâu
Nhưng mẹ ơi! / Mẹ hãy để các em con là m ăn là m mặc
Hãy để nước tự tìm đến suối đến khe /
Đừng vội đo nương nhà người như con mẹ nhé !".
4. Đọc và ngẫm ngợi thơ ĐHN, tôi nhận ra: nhà văn ĐHN đã có những đóng góp quan trọng vử mặt truyửn bá và lưu giữ những nét đặc sắc đời sống văn hoá - tinh thần của đồng bà o các dân tộc vùng cao phía Bắc.
Các bà i thơ: Bếp lửa nhà mình, Ngà y mai là chợ Khau Vai, Thưa mẹ, Từng đốt cuộc đời, Tản mạn trong chiửu... trong tập thơ nà y hợp thà nh chùm thơ hay, xứng đáng luôn có mặt trong các Tuyển thơ Việt Nam hiện đại vử đử tà i dân tộc và miửn núi. ĐHN là người miửn xuôi nhưng đã gắn bó nửa đời với núi rừng - sông suối Là o Cai máu thịt. ĐHN là nhà văn nhưng đã dà nh tặng cho đời những tình thơ đầy tâm thế, ám ảnh khôn nguôi.
Lao động nghệ thuật một cách chuyên nghiệp như anh đâu phải dễ dà ng trong không gian đời sống vừa vùng cao, vừa tỉnh lẻ. Xin được yêu quý những bà i thơ, câu thơ hay và đẹp của ĐHN trong sự thảnh thơi chân thà nh - không cần vướng bận đến công thức câu - chữ, hay những nguyên tắc nghệ thuật rắc rối vử thi pháp nà o đấy.