Nhưng mỗi lần ngồi trò chuyện bên cái ao sen nhử nơi cửa ngõ của Hà Nội, tôi lại cảm thấy như tìm lại được một phần thân quen của cuộc đời tôi nơi đó.
1. Trong xã hội hiện nay vẫn còn nhiửu con nghiện. Nhiửu người thường nghĩ đã nghiện là bó tay. Nhưng ai đó lại bảo Có sư Huân rất giửi phép chữa bệnh nghiện, tò mò tôi ra đoạn ngã ba Pháp Vân, Cầu Giẽ tìm tới chùa Pháp Vân để xem thầy chữa bệnh thế nà o. Tới nơi mới biết thầy trụ trì chùa nà y, nhưng ở Quán Sứ, thường chiửu chiửu thầy mới vử. Trong chùa, con nghiện và người nhiễm HIV cả chục, nhưng mọi thứ đửu ngăn nắp, sạch sẽ.
Ngôi chùa nhử, là ngôi nhà cấp bốn, xung quanh tơi bời cử dại, cái ao sen cũng mới được đà o, còn nguyên vôi vẽ. Mấy chú nghiện chạy tới chạy lui, là m món mướp đắng luộc cho bữa cơm chiửu và mời tôi ở lại dùng. Nói chung nơi nà y chẳng có gì gợi nên khái niệm vử một trại cai nghiện. Nhưng, cũng chẳng có gì gợi lên... phong cảnh nhà chùa, ngoà i mấy chậu hoa đạm bạc đặt trước sân. Xế chiửu thì sư Huân xuống. Sư có khuôn mặt quý tướng, dáng đi nhẹ nhà ng, riêng tiếng nói thì quyết đoán, nhưng rất kiệm lời.
Qua câu chuyện, tôi được biết gia đình của sư có mấy anh chị em thì tất cả đửu theo nghiệp tu hà nh. Chị của thầy trụ trì ở chùa Bồ Đử bên Gia Lâm, ngôi chùa nuôi nhiửu trẻ em vô thừa nhận. Chùa bên nà y, tên gọi là Pháp Vân, nằm ở cửa ngõ thà nh phố, thầy vử trụ trì, mở văn phòng giúp người HIV hòa nhập với cộng đồng, chữa cho người nghiện hút thuốc phiện. Tôi đã quen với cảnh chùa vắng vẻ, các sư thường đóng cửa tụng niệm, hoặc lập các hang cốc để tu thiửn, hà ng tháng không gặp ai. Chùa Pháp Vân thì khác lắm. Chúng tôi ngồi nói chuyện thì người ra kẻ và o, đầu cạo trọc, mình xăm trổ rồng phượng.
Tuy vậy, tôi cảm thấy sắc khí và tướng mạo của kẻ nghiện, người nhiễm không có gì đáng ngại ngần. Họ trầm tư, thỉnh thoảng nở những nụ cười hiửn là nh, kiên nhẫn, phiêu bồng như chẳng còn vướng bận ham muốn gì. Hửi ra thì người đã ngụ ở chùa nửa năm, kẻ thì bảy tháng. Đ‚n chay, trồng hoa. Chùa có cổng mà không có cửa, nhưng chẳng ai bử vử. Một chú ở Hải Phòng bảo: Tự dưng lên đây thấy ngại, chẳng dám nghĩ đến chuyện hút hít gì!.
2. Sư Huân nói việc chùa giúp đỡ người cai nghiện tìm thấy niửm tin, giúp người nhiễm HIV tìm thấy khát khao sinh tồn, không phải là phát kiến mới, bởi khi học tiến sĩ ở Đà i Loan, các thầy bên đó khuyên rằng khi học xong rồi thì nên đi cứu giúp các Phật tử. Việc và o nhà tù, và o nơi nghiện, chỗ nhiửu người nhiễm HIV để tìm đệ tử, an ủi, giúp đệ tử vượt qua những cơn bi quẫn cùng cực, đã là công việc quen thuộc của sư và các sư thầy khác rồi. Sư nói vậy, nhưng việc mở cửa chùa để thâu nạp con nghiện, người nhiễm HIV không phải là có nhiửu.
Hơn nữa, công việc cũng chẳng dễ dà ng gì. Sư Huân phải rất nghiêm để trị những thói hư tật xấu, nhưng lại khoan dung, không bao giử nặng lời. Với người nghiện, người nhiễm HIV, không bao giử phân biệt, cùng sinh hoạt, cùng ăn cơm, nghỉ ngơi, tu hà nh. Những người tù tội, những người bị xã hội đặt các dấu hửi vử khả năng hoà n lương thì trước tam bảo, đửu bình đẳng và chăm chỉ công việc tu hà nh mà không cần xuống tóc. Đức Phật ở xa mà lại gần. Đó là tấm gương của sư Huân, tận tụy với đời, không bao giử đòi hửi, trách phạt, phân biệt cư xử.
Cuộc sống giản dị, toà n tâm toà n ý cho một cuộc sống bình đẳng và lo cho mọi người đửu được cư xử như nhau. Chùa không có cửa, đến hay đi, đấy là tùy tâm của mỗi con người. Con nghiện nói đùa rằng chúng con không phải là thầy, mà thầy cũng chẳng phải chúng con. Nhưng thực tình, mỗi cử chỉ, mỗi việc là m của thầy đửu bị anh chị em xăm soi rất kử¹, bởi những lúc ngồi dưới hiên nhà , câu chuyện đửu là vử thầy cả.
3. Ban đầu, tôi nghĩ sư Huân có thuốc gì đó, bí kíp, để cai nghiện. Nhưng hóa ra không phải. Sư nói, nghiện hay không nghiện nữa đửu là do ý chí của con người mà ra. Muốn có ý chí, cái tâm phải tốt. Người xưa nói tâm sáng chí bửn thật là không sai. Người nghiện sống trong môi trường thanh bạch, không nhuốm sự ham hố, sáng cuốc cử tưới hoa, chiửu nghe kinh.
Thiếu thuốc và i ngà y thì quằn quại lắm. Nhưng quằn quại mà xấu hổ chứ không đau khổ, bởi thấy mình quằn quại với một thứ ham hố chẳng có giá trị gì. Và i ba ngà y sau, tự dưng trong người thanh nhẹ, không còn bị sự ham hố hà nh hạ nữa. Những ngà y kế tiếp, các anh các chú mới nằm nghỉ ngơi, chạy ra phụ với sư để tưới hoa. Câu nọ xọ câu kia, nghe rất vui tai. Có người lúc đó mới kể chuyện tù tội, nghiện mười năm rồi, và o tù chẳng qua là vì đi cướp để lấy tiửn hút. Khổ thế. Cơm thì chỉ có rau, canh. Ưu tiên người yếu và i con cá cơm khô.
Nhưng và i ba tháng thì ai nấy đửu mập ra, vui khửe. Có chú đà o hố, trồng hoa khửe hơn cả người nhà chùa. Đến chùa cai nghiện mà không thấy có thuốc cai nghiện, không cần phải quản lý, cũng chẳng thấy sư phải là m gì, ngoà i việc động viên hửi xem đang nghĩ gì?, vì sao lại buồn?, mệt thì nằm nghỉ đi... đại khái như vậy.
Nếu không nói thì đố ai biết những người kia từng là con nghiện đã trải qua nhiửu trại mà bất thà nh, những người nhiễm HIV tưởng đã nằm trong mồ bê tông. Phép cai nghiện của sư Huân vừa vi diệu, vừa giản dị. Vi diệu ở chỗ ta không thấy phác đồ ở đâu, ta không dễ gì cắt nghĩa là m sao người lại bử những thứ đam mê trói buộc để trở thà nh một con người tự do. Giản dị ở chỗ, rút cục người ta tự mình thoát được những đam mê lầm lạc, mà không cần nhử đến ai.
Tự mình tìm thấy cho mình một con đường. Dăm ba tháng lại một lớp học viên mới, kết quả rõ rà ng. Và o chùa quằn quại nặng nử mà ra đi thì khăn gói quả mướp nhẹ nhà ng như một cơn gió thoảng hương sen, không nói câu nà o, chỉ chử đến chiửu để chà o sư một câu rồi rảo bước. Một trong những câu hửi lớn của con người, đó là tồn tại để là m gì?
Cũng như trong nhà chùa trả lời câu hửi: Tu hà nh để là m gì? Dường như sư Huân đã tìm được câu trả lời cho công việc tu hà nh, đấy là đem ánh sáng niửm tin và sự bình an đến với những người đang cần nó nhất. Sự an lạc của người tu hà nh nằm trong sự an lạc của chúng sinh.
4. Trò chuyện với những người dân trong là ng tôi biết được chùa Pháp Vân được xây dựng từ năm nhà Lý ra tìm đất định đô. Tương truyửn, khi xa giá nhà vua từ Hoa Lư ra tới đây thì voi ngựa đứng lại, trời bỗng nhiên đổ mưa lớn. Nhà vua bèn cho xây dựng chùa Pháp Vân, ngay ở vị trí cửa ngõ phía Nam của Thủ đô, nơi xa giá dừng lại. Định đô từ đó.
Trải qua bao thời đại, bao phen binh lửa, chùa Pháp Vân nơi cửa ngõ của kinh thà nh Thăng Long, chỉ còn là bãi đất trống hoang tà n và một ngôi nhà cấp bốn, nếu nhìn từ ngoà i và o không ai biết là chùa. Sư Huân vử trụ trì, dọn quang cử dại, là m sân vườn, đà o ao, thả sen. Trên đất đai của nhà chùa có cả mồ hôi của những con nghiện, của người nhiễm HIV và của các sư. Người đến kẻ đi, không biết bao nhiêu mà xuể. Tôi còn nhớ buổi chiửu ngồi trên đống gạch vỡ, sư Huân nói rằng mơ ước sẽ xây dựng lại một ngôi chùa Pháp Vân đẹp đẽ như xưa, với những đường nét gần gụi với tự nhiên.
Chúng tôi cứ miên man mà mường tượng ra ngôi chùa ấy. Mới đây qua trang web của chùa, tôi mừng rỡ biết chùa vừa được Phật tử cung tiến một khối đá nặng 150 tấn để tạc tượng Phật nhập Niết bà n lớn nhất Việt Nam, đúng và o dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội. Đây thực sự là một tin mừng cho ngôi chùa đã tròn 1.000 năm tuổi, bằng với tuổi kinh thà nh Thăng Long. Việc tạc tượng đang được tiến hà nh vô cùng khẩn trương, với sự góp công của đông đảo Phật tử của ngôi là ng cổ ven đô, cùng huynh đệ xa gần. Tôi viết bà i nà y trước hết để chia sẻ với sư Huân niửm vui vử sức sống của ngôi chùa cổ Pháp Vân của Hà Nội.
Trải qua thăng trầm, văn hóa Hà Nội và văn hóa Việt Nam không bị mai một mà ngà y cà ng sâu lắng, bửn vững hơn, ngôi chùa cũng ngà y cà ng hưng thịnh. Ngôi sao điện ảnh Thà nh Long, đại diện cho UNICEF đã từng đến chùa Pháp Vân để thăm mô hình cai nghiện và giúp đỡ người nhiễm HIV tại đây. Việc tạc bức tượng Phật nhập Niết Bà n lớn nhất Việt Nam, đặt tại chùa Pháp Vân, Hà Nội, nhân 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội, có thể xem là một sự ghi nhận với các sư thầy và các Phật tử của chùa.
* * *
Trong những ngà y vui nà y, tôi khó thể nà o quên những ngà y gian truân của sư thầy Thích Thanh Huân, một thanh niên vử Hà Nội tu hà nh từ năm 17 tuổi, ngồi trăn trở trên những đống gạch vụn khi mặt trời sắp tắt, lo lắng cho con nghiện mới và o chùa vẫn còn thèm thuốc, chuyện các Phật tử đang tìm công ăn việc là m thời đô thị hóa...
Tôi thầm nghĩ rằng lẽ ra giử ấy thầy đang thanh nhà n nơi tịnh xá để suy tư những triết lý cao siêu. Nhưng rồi, tôi chợt nhận ra rằng, có thể chính trong ngôi chùa bận rộn Pháp Vân, sư Huân đã tìm thấy sự bình an và niửm vui đích thực của kẻ tu hà nh trong những nụ cười tủm tỉm của những đệ tử là con nghiện bốn phương. Họ vừa thoát ra khửi những cái chết vử mặt tinh thần, để đi tìm những nẻo đường sáng của cuộc đời. Mỗi khi họ cười, thì nụ cười cũng hiện ra trên khuôn mặt ưu tư của sư Huân.
TP.HCM 5/2010