Với bà i "Long thà nh cầm giả ca", ám ảnh vử sự tà n tạ của người cũ trên đất cũ Thăng Long trong Nguyễn Du lại cà ng đậm nét. Ngà y xưa, hình ảnh người con gái gảy đà n là : "Xuân độ ấy đương hồi ba bảy/ ành hồng trang lộng lẫy mặt hoa/ Não người vẻ rượu ngà ngà / Năm cung dìu dặt nảy qua phím đà n" (Hoà ng Tạo dịch).
Đặc biệt ấn tượng là hiệu ứng mà người ấy tạo ra đối với quan khách là các tướng lĩnh Tây Sơn: "Tây Sơn quan khách la đà / Mải vui quên cả tiếng gà tan canh/ Tả lại hữu tranh già nh gieo thưởng/ Tiửn như bùn ước lược qua qua/ Vương hầu thua kẻ hà o hoa/ Ngũ Lăng chà ng trẻ ai mà kể chi" (Rất dễ thấy cái cung cách hà o phóng của người thưởng ngoạn nghệ thuật xuất thân võ biửn qua đoạn thơ nà y).
Còn đây là hình ảnh của chính người gảy đà n ấy, ngà y nay, già nua xấu xí và bị chìm khuất: "Mé cuối tiệc một người nho nhử/ Tóc hoa râm mặt võ mình gầy/ Bơ phử chẳng sửa đôi mà y/ Tà i hoa ai biết đất nà y không hai". Nguyễn Du nhử lệ xót thương cho sự tà n tạ của cô Cầm: "Lệ thương tâm ướt vạt áo là " (Thương tâm vãng sự lệ triêm y). Nhưng từ đó, ông bộc lộ cảm khái trước thế sự: "Cuộc thương hải tang điửn thấm thoắt/ Cõi nhân gian thà nh quách đổi dời/ Tây Sơn cơ nghiệp đâu rồi/ Mà là ng ca vũ một người còn trơ".
Kử³ tiệc vui bên hồ Giám ngà y xưa, có người đà n, có những người thưởng đà n, nhưng nay chỉ còn lại một vế. Cô Cầm kia, tuy tà n tạ, nhưng vẫn là một tồn tại trước những bể dâu. Còn nhà Tây Sơn, hùng mạnh thế ấy, song hóa ra bạo phát bạo tà n, tựa như một thoáng phù du của quyửn lực trong cõi nhân gian. Dấu nối giữa số phận của một cá nhân và số phận của một triửu đại đã được vạch ra. (Sắc thái đối lập giữa sự còn/ mất nà y nổi lên rõ hơn trong nguyên tác Hán văn: Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong/ Ca vũ không di nhất nhân tại).
Sẽ là suy diễn võ đoán nếu chỉ căn cứ và o đoạn thơ nà y mà nói rằng Nguyễn Du bà y tử cảm tình cũng như niửm nhớ tiếc của ông với triửu Tây Sơn. Có lẽ chỉ nên xem đây như một nhận thức nhuộm mà u bi quan của Nguyễn Du vử thân phận nhử nhoi của con người, vử những nỗ lực tuyệt vọng của con người trước thói đửng đảnh quái ác của Tạo hóa, hay nói cách khác, trước Định mệnh. (Không ít lần Nguyễn Du bộc lộ cảm thức nà y trong thơ.
à”ng đã từng có nhận định trong bà i "Vị Hoà ng doanh": "Cổ kim vị kiến thiên niên quốc" (Xưa nay chưa từng thấy triửu đại nà o đứng vững nghìn năm). Cũng như sau nà y ông sẽ viết trong "Đoạn trường tân thanh": "Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điửu trông thấy mà đau đớn lòng"). Một nỗi bi quan mang tính tiên nghiệm, có thể nói vậy, và nó đã được khắc sâu thêm trong Nguyễn Du qua sự tái ngộ với các cố nhân trên đất cũ Thăng Long.
Bản thân kinh thà nh Thăng Long, với Nguyễn Du, cũng là chứng tích của dâu bể sau hai mươi năm ông trở lại. Hai bà i "Thăng Long" ông viết khi sứ bộ từ Phú Xuân dừng chân ở Thăng Long trước khi lên Mục Nam Quan cho thấy rất rõ điửu đó.
Bà i "Thăng Long" thứ nhất, liên hai và liên ba như sau: "Thiên niên cự thất thà nh quan đạo/ Nhất phiến tân thà nh một cố cung/ Tương thức mử¹ nhân khan bão tử/ Đồng du hiệp thiếu tẫn thà nh ông" (Những ngôi nhà đồ sộ nghìn xưa, nay thà nh đường cái/ Một dải thà nh mới là m mất dấu vết cung điện cũ/ Những cô gái đẹp từng biết nay đửu đã ẵm con/ Những bạn hà o hiệp lúc trẻ nay thà nh ông già - Phạm Khắc Khoan và Ngô Ngọc Can dịch).
Bà i "Thăng Long" thứ hai, liên một và liên hai là : "Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thà nh/ Do thị Thăng Long cựu đế kinh/ Cù hạng tứ khai mê cựu tích/ Quản huyửn nhất biến đạp tân thanh" (Mảnh trăng ngà y trước soi xuống ngôi thà nh mới/ Đây vẫn là Thăng Long, đô thà nh của các triửu vua trước/ Đường sá ngang dọc là m lạc mất dấu vết cũ/ Tiếng đà n sáo cũng đổi khác, xen lẫn âm thanh mới - Vũ Mộng Hùng và Trần Thanh Mại dịch).
Dễ thấy ở hai bà i thơ nà y, cái nhìn và o Thăng Long của Nguyễn Du là cái nhìn luôn có sự liên hệ, đối chiếu giữa xưa và nay, cũ và mới: một phía là từ "tân" (tân thà nh, tân thanh), và một phía là các từ "cố" (cố cung), "cổ" (cổ thời minh nguyệt), "cựu" (cựu đế kinh, cựu tích). Vẫn là đất Thăng Long ấy mà cứ ngỡ như là đất Thăng Long nà o khác.
Khu mộ thi hà o Nguyễn Du
Bởi lẽ tất cả đã không còn nguyên như trước, cái mới thay thế cái cũ, cái mới đan xen với cái cũ. Thà nh quách, đường sá, nhà cửa cho chí con người, tất thảy của Thăng Long trong hiện tại đửu không khửi khiến cho ông Chánh sứ Nguyễn Du chạnh lòng nhớ tới Thăng Long trong quá khứ, Thăng Long của cậu Chiêu bảy nhà Xuân quận công Nguyễn Nghiễm.
Giữa Thăng Long ấy và Thăng Long nà y, giữa cậu Chiêu bảy nọ và ông Chánh sứ Nguyễn Du đây là cả một khoảng thời gian đầy biến động, biến động liên tục mà người trong cuộc không thể ngử tới: loạn kiêu binh, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh, quân Lườ¡ng Quảng của Tôn Sĩ Nghị trà n và o và đại bại trước Tây Sơn, rồi đến lượt triửu Tây Sơn sụp đổ trước quân lực của Gia Định...
Phải nhấn mạnh lần nữa rằng sự nhớ tiếc quá khứ của Nguyễn Du ở hai bà i thơ nà y không gắn với bất cứ triửu đại nà o (ông không phải là người có khuynh hướng chính trị thật rõ rà ng). Quá khứ với ông đơn giản là ... quá khứ, là thời gian trôi qua và bất khả vãn hồi, là chứng tích để cho thấy rằng con người thật nhử nhoi và bất lực trước những biến thiên không thể cườ¡ng lại.
Không ngẫu nhiên mà ở cả bốn bà i thơ là m tại Thăng Long, vử Thăng Long của Nguyễn Du đửu xuất hiện hình ảnh mái đầu bạc: "Nam hà qui lai đầu tận bạch" (Tôi từ Nam hà trở lại, đầu bạc trắng hết - Long thà nh cầm giả ca), "Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long" (Đầu bạc còn được thấy cảnh Thăng Long - Thăng Long I), "Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh" (Mái tóc mình cũng đã bạc lốm đốm - Thăng Long II), "Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly" (Nay đầu bạc gặp nhau, khóc than nỗi lưu ly - Ngộ gia đệ cựu ca cơ). Mái đầu bạc: sự già lão, mệt mửi, buông xuôi, bất lực trước cuộc thương hải tang điửn!
Vử mặt nà o đó, có thể khẳng định rằng nếu không có quãng thời gian sống ở Thăng Long, sống và thấm nhiễm bầu khí văn hóa đất đế đô, sẽ không thể có một Nguyễn Du tà i hoa và tinh tế như chúng ta từng biết qua thơ chữ Hán, qua văn Nôm.
Đến lượt mình, Nguyễn Du cũng đã trả nghĩa cho Thăng Long, tất nhiên, theo cách của ông. Bốn bà i thơ mở đầu tập "Bắc hà nh tạp lục" đã cho thấy một Thăng Long đẹp: cái đẹp của buổi xế chiửu, cái đẹp của lá và ng hoa rụng, cái đẹp nhuốm một mà u phôi pha...