Trường ca Chín cơn mưa và mẹ (NXB Quân đội Nhân dân, quý 1/2020) được Nguyễn Hữu Quý khởi thảo từ năm 2015, hoàn thành năm 2018 và xuất bản năm 2020. Đây là trường ca xúc động trên từng con chữ, gần như nhà thơ viết bằng nước mắt nhớ thương…
Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình, cuối con sông Gianh, nơi có cảng Giang - một “địa chỉ đỏ” của lòng yêu nước chính là quê hương nhà thơ Nguyễn Hữu Quý. Nói đến cát quê hương anh, không ai không nhớ câu thơ của Tố Hữu “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”. Lớn lên con người đã lấm lem cùng cát, khi về với tiên tổ, những nấm mồ cũng chỉ là một núm cát lẫn vào trong muôn vàn nhấp nhô của nghĩa trang làng quê.
Cát là cả khoảng trời ký ức của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý: “Những câu thơ xác nhận/ cát là một phần của con/ miền Trung là một phần của con/ biển Đông là một phần của con/ không thể khác”. Cát không chỉ là Thanh Trạch mà là miền Trung, là Tổ quốc. Cát không chỉ là “Những cánh đồng van vát miền Trung/ neo vào Trường Sơn để không trôi ra biển”, mà còn là biển Đông, là chủ quyền và quyền chủ quyền Việt Nam về biển đảo.
Hạt cát quê hương với Nguyễn Hữu Quý không còn là hạt cát, quê hương Thanh Khê, không đơn giản là nơi nhà thơ được sinh ra, lớn lên về mặt địa lý mà rộng lớn hơn đó là hồn vía quê mình, đất nước mình, dân tộc mình. Đọc trường ca này mới biết từng hạt cát, ngọn lông chông cô đơn trên trảng cát... dù là bình dị nhưng thật thiêng liêng. Bao hạt cát li ti trên những trảng cát dài là thế giới nội tâm, phổ cảm xúc trong thơ Nguyễn Hữu Quý, không riêng trong trường ca mới nhất của anh Chín cơn mưa và mẹ. Yêu quê đến da diết, và chính anh xác nhận: “Con đã gắn đời con và xứ sở/ để con được là mình/ để mãi mãi là con của mẹ/ tảo tần, ngay thẳng, thương yêu!”.
Cuộc đời của con người cũng như những hạt cát li ti ấy, gió cuốn đi. Những hạt cát bay đi, e cũng sẽ quay về với chính nơi nó ra đi. Những doi cát Quảng Bình, doi cát quê hương sẽ đầy lên mãi, tồn tại mãi. Đằng sau hạt cát của Nguyễn Hữu Quý ẩn chứa triết lý cuộc đời:
Tuổi thơ con tắm gội quê hương
da thấm mặn như sinh ra từ muối
đi đâu, về đâu con cũng nghe sông gọi
từ eo lưng của Tổ quốc mình
Nguyễn Hữu Quý đã tìm thấy sự cứu rỗi khi nhớ về những trảng cát quê nhà, dẫu vạn vật có thể thay đổi. Cứ thế, cát thủy chung, nâng đỡ con người. Cát với Nguyễn Hữu Quý là thi ảnh, ngôn ngữ trữ tình, tạo nên sự khác biệt: “Trên trảng cát chim chiền chiện hót/ chúng bay ra từ trái tim con/ chiếc tổ ấm lót đầy rơm ký ức”. Cát vẫn là nơi phồn sinh cuộc sống, con chim chiền chiện ký thác cuộc đời, trái tim nhà thơ vì thế có tiếng hót phồn sinh, nảy nở.
***
Xã Thanh Trạch như bao xã miền Trung nói chung, Quảng Bình nói riêng ở ven biển đều “chang chang cồn cát” (thơ Tố Hữu). Trong thơ Nguyễn Hữu Quý: “Cát tụ thành cồn/ đồng làng ta đẹt bông thắt củ/ cát xộn xạo bay vào tận cửa/ miếng cơm/ lùa nắng chang chang”. Dòng họ Nguyễn của anh theo chúa Nguyễn Hoàng từ Thanh Hóa vào Nam, nhiều người dừng lại ở Quảng Bình mà lập nên làng, phát triển đến bây giờ: “Lập xóm dựng làng/ lên rừng xuống biển/ đẵn gỗ dựng nhà, cuốc đất làm rẫy/ cày xới phù sa nặng nhẹ chiêm mùa/ cây lúa ngậm phèn, củ khoai nếm mặn/ chèo thuyền vượt sông, giong buồm ra biển/ tựa rừng, hướng sóng mênh mang”. Từ bao đời nay, tìm kiếm sự sống ở những ngôi làng trên cát, không giản đơn. Có điều, “quê hương mỗi người chỉ một” (thơ Đỗ Trung Quân), Nguyễn Hữu Quý yêu làng như máu thịt: “Đi đâu con cũng mang làng theo/ bánh bột lọc, cháo canh mời láng giềng bè bạn”.
Thật thú vị khi đọc Chín cơn mưa và mẹ thấy ngôi làng cát trắng ấy, bao hình ảnh thân thương về cây cỏ trong vườn, trong làng hiện lên mồn một. Nguyễn Hữu Quý nâng niu quê nhà từ cỏ cây, hoa lá đến “cá biển cá đồng/ con nục, con trích, con tràu, con diếc” rồi gạo ruộng, sắn đồi, “hạt thóc mỏng, củ sắn cùi eo ọt”.
Lớn lên giữa thời bom đạn, Nguyễn Hữu Quý như bao thanh niên khác ở làng lên đường nhập ngũ, nối gót cha anh bước vào cuộc trường chinh giải phóng. Vậy nhưng hình ảnh quả ớt mọi mọc trong vườn nhà, anh không bao giờ quên. Ở Khúc trở về - chương 9 của trường ca, Nguyễn Hữu Quý vẫn dành cho quả ớt mọi quê nhà với tình cảm nâng niu:
quả bé xíu chỉa lên trời chi chít
có bữa con nghe ông trời hà thít
vị trần gian cay rựng mặt mày.
Anh cũng nhắc đến chè vằng nơi quê nhà “van vát miền Trung”, nhắc đến “... hoa tía tô rung rinh đỏ/ bông bầu trắng, bông bí vàng/ hồn nhiên vui cười trên mặt đất/ hoa xoan tim tím trên đầu/ Giêng hai thơm thoang thoảng/ trời cao/ mây trắng lang thang...”. Và cuối cùng là cây cỏ quê nhà: “Cỏ là điệp khúc thời gian/ ra đi, trở lại/ an nhiên hồn nhiên tự nhiên/ Màu linh hồn xanh biếc/ cỏ ơi!”.
Nguyễn Hữu Quý tự hào và nâng niu vùng trời ký ức của anh. Quê hương trong anh có vẻ đẹp lãng mạn “Trên trảng cát chim chiền chiện hót/ chúng vừa bay ra từ trái tim con/ chiếc tổ ấm lót đầy rơm ký ức”; có cả bóng dáng tảo tần của mẹ: “Quang gánh còn đây mẹ đã xa rồi/ thúng mủng đựng cái nhìn con trống trắng/ trong ngôi nhà rất nhiều im lặng/ con nhận ra những con số không”.
Tất nhiên, viết về người mẹ, dâng tặng mẹ, nhưng ngoài người mẹ “mang nặng đẻ đau”, cho anh hiện sinh còn một người mẹ đất nước, mẹ Tổ quốc. Hình ảnh “hai người mẹ” lồng vào nhau đi suốt cuộc đời binh nghiệp, từ làng ra đi rong ruổi suốt chiều dài đất nước và Khúc trở về như tên chương 9 của trường ca.
Nhà thơ, Đại tá Nguyễn Hữu Quý - người có nhiều sáng tác về người lính, quê hương, đất nước. Ông cho rằng, trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, có thể thanh niên sẽ trở thành những “công dân toàn cầu”, nhưng một điều không thể khác được, đó là Tổ quốc - quê hương luôn được đặt trong tim họ. “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc…” (nhà văn người Nga I-li-a Ê-ren-bua). Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý đang ấp ủ nhiều dự án về đề tài này.