Sau đây, báo Điện tử Người Hà Nội trích đăng một số đoạn do nhà báo Nguyễn Hữu Hưng ghi theo lời kể của GS.VS Trần Đại Nghĩa ngay sau ngà y giải phóng miửn Nam 30/4/1975.
Bắc Bộ Phủ, 7h sáng ngà y 5/12/1946
...Vử tới đất nước khi tà u cập bến Hải Phòng. Nhớ sao phút đầu tiên gặp gỡ! Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp hồi ấy còn rất trẻ, đôi mắt sáng ngời. Nắm chặt tay tôi, đồng chí nói: Nghe tin các anh cùng vử với Bác, chúng tôi mừng quá. Công việc ở nước nhà đang chử các anh.
Những ngà y cuối năm 1946, nạn chết đói vừa qua, thực dân Pháp lại lăm le nô dịch dân ta một lần nữa. Tôi được lệnh bắt tay ngay và o việc. Khi đoà n xe tăng của địch rầm rộ nghiến xích sắt trên các ngả đường tiến và o thủ đô. Tôi vừa bắt tay giải quyết những công việc trước mắt, vừa suy nghĩ vử vấn đử chuẩn bị vũ khí cho kháng chiến lâu dà i.
Sau lần cùng Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thử nghiệm đạn pháo Badoca ở vùng núi Đại Từ (Bắc Thái) thì một sự kiện lớn đến với tôi: 7h giử sáng ngà y 5/12/1946, tôi lại được Bác Hồ cho gọi tới Bắc Bộ Phủ.
Nhìn thấy Bác hiửn từ, nhân hậu là mọi hà ng rà o tâm lý trong tôi tan biến. Người hửi han nơi ăn chốn ở và điửu kiện là m việc của tôi rồi bảo: Kháng chiến đến nơi rồi. Hôm nay, Bác quyết định giao cho chú nhiệm vụ là m Cục trưởng Cục quân giới, chú sẽ chăm lo vũ khí cho bộ đội. Đây là việc đại nghĩa. Vì thế từ nay Bác đổi tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Bác mong chú gắng hết sức mình để là m tròn nhiệm vụ.
Tôi nhớ hôm ở Bắc Bộ Phủ, Bác đã nói rất nhiửu vử chiến tranh nhân dân và nhắc tới cuốn sách Bà n vử chiến tranh của Claudovit mà tôi hằng thích thú. Bác dặn tôi phải tập trung suy nghĩ giải quyết vấn đử vũ khí cơ bản và vũ khí quyết định chiến trường. Đó là mìn, lựu đạn, vũ khí chống xe tăng, chống tà u chiến, vũ khí công đồn. Thà nh công vử quân giới của chúng ta trong hai cuộc kháng chiến chủ yếu là do chúng ta biết tập trung và o vũ khí phục vụ chiến tranh nhân dân. Vũ khí ấy vừa đáp ứng được nhu cầu rộng rãi, phong phú, muôn mà u muôn vẻ của quân dân cả nước, có hiệu suất đánh địch cao, vừa có tác dụng bẻ gãy những vũ khí chiến lược của địch trong từng giai đoạn chiến tranh.
Nhớ lại lần tôi cùng đồng chí Tạ Quang Bửu thủ đạn pháo badôca ở Đại Từ. Trong tay chỉ có 2 quả lựu đạn và một khẩu pháo phóng đạn do Mử¹ chế tạo, nhưng lại là chiến lợi phẩm lấy được từ phát xít Nhật. Một quả đạn phóng thủ nghiệm thà nh công. Quả còn lại được tháo ra để nghiên cứu. Đó là một loại đạn lõm, trong đầu đạn là một khối thuốc nổ nằm sau lớp vử đồng lõm hình chóp nón. Khi đạn nổ, chóp nón lật ngược lại thà nh đầu đạn với áp suất và nhiệt độ rất lớn, có khả năng xuyên thủng vử thép dà y của xe tăng, tà u chiến. Nắm được nguyên lý đó chẳng khó, nhưng thực tiễn chế tạo lại không đơn giản. Và phải mất 1 năm sau chúng ta mới chế tạo thà nh công badoca. Lập tức loại đạn lõm lợi hại nà y được sản xuất hà ng loạt tại các xưởng quân giới, đặc biệt là xưởng quân giới Liên khu Ba.
Lần đầu tiên ra trận, đạn badoca của ta đã xuyên thủng chiếc xe tăng đi đầu và giết giặc lái, là m tất cả đoà n xe của địch từ Hà Nội đi Vân Đình phải chững lại rồi nháo nhác quay vử. Số lượng badoca tung ra các chiến trường khá lớn. Trận Bình Ca, hà ng chục lính Pháp bị tiêu diệt bởi một quả đạn badoca bắn thẳng.
Việc chế tạo và sản xuất cơ bản đòi hửi phải giải quyết vấn đử cung cấp nguyên vật liệu ngà y cà ng lớn bằng cách khai thác các nguồn có sẵn như đường ray tà u hửa, sắt thép quyên góp của nhân dân...
Để nâng cao chất lương và đẩy mạnh tốc độ sản xuất vũ khí, chúng tôi còn đà o tạo đội ngũ cán bộ kử¹ thuật và công nhân quân giới. Cục quân giới liên tục mở các lớp tập huấn. Tôi tự soạn ra các tà i liệu hướng dẫn, các bà i giảng cho anh em, theo phương châm cần gì học nấy, dùng ký luận cơ bản soi rọi cho thực tiễn kử¹ thuật, học đi đôi với hà nh.
Những bà i học kinh nghiệm vử khoa học kử¹ thuật trong lĩnh vực quân giới, tôi nghĩ vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay, đó là việc tạo ra sức mạnh tổng hợp, tạo ra kử¹ thuật, chiến thuật thích hợp trong từng bộ phận, từng thời gian để thắng đối phương vử mặt chiến lược trong phạm vi toà n cục.
GS VS Trần Đại Nghĩa trong 1 buổi gặp mặt Bác Hồ
Hà Nội những ngà y đầu năm 1966
Hồi ấy tôi đang là m Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước và Ủy ban Khoa học và kử¹ thuật Nhà nước thì được tin Bác Hồ có ý kiến: Tôi đã đem chú Nghĩa vử nước để kháng chiến, nay cuộc kháng chiến chống Mử¹ cứu nước ngà y cà ng ác liệt, tại sao không điửu chú ấy tham gia quốc phòng?
Theo ý kiến của Bác, tổ chức phân cho tôi thêm chức vụ Phó Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, phụ trách vử kử¹ thuật quốc phòng. Thực tế là chúng ta đã thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mử¹ bằng chiến tranh nhân dân.
Dựa và o kinh nghiệm rút ra từ chiến tranh thế giới thứ 2, tôi đử xuất với Bác vử chiến lược sơ tán và phòng thủ thụ động để tránh thương vong lớn và được Bác chấp nhận. Người chỉ thị cho Bộ Quốc phòng cùng với các tổ Đảng và chính quyửn từ trung ương đến địa phương tổ chức sơ tán và đà o hầm rộng khắp. Các biện pháp đó góp phần quan trọng và o chiến thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mử¹.
Trong việc chống chiến tranh điện tử của địch trên đường Hồ Chí Minh và trên các chiến trường, chúng ta đã kịp thời phát hiện các ý đồ chiến lược, chiến thuật của địch vử mặt vũ khí, nhử đó có nhiửu sáng tạo trong sử dụng vũ khí đánh địch, phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân.
Sau ngà y 30/4/1975
Nhiệm vụ của tôi vẫn chưa hết khi nước còn nghèo, dân còn khổ, phải góp phần là m cho nhân dân Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hà nh như lòng Bác Hồ từng mong ước.
Trong xây dựng kinh tế, tôi ghi sâu đạo đức của Bác cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tác phong, tư thế lao động rất khoa học của Người. Những năm học và là m việc ở một nước công nghiệp, cùng với việc nghiên cứu khoa học kử¹ thuật và vũ hí, tôi còn chú ý tìm hiểu các vấn đử vử khoa học quản lý.
Tôi nhân ra rằng, ở nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta, lử lối là m việc của người nông dân cũng như những người sản xuất nhử nói chung chưa tính đến hiệu quả, biết tiết kiệm thời gian và ít rút kinh nghiệm cải tiến phương pháp là m việc. Mỗi người không biết đi và o chuyên sâu và không có trình độ để tiếp cận với các lĩnh vực khoa học kinh tế - xã hội. Đã đà nh có vấn đử cơ chế, song suy diễn đến tận gốc thì vẫn là con người quyết định. Vấn đử nà y Bác đã để lại cho tôi một bà i học vô cùng quý giá. Tôi nhận thấy ở Người một tấm gương sáng vử tư thế là m việc khoa học. Bao giử Bác cũng nhắc nhở mọi người: Mục đích để là m gì? Là m cho ai? Là m như thế nà o? Và phải đúc rút kinh nghiệm, luôn luôn học đi đôi với hà nh, phê bình và tự phê bình để tiến bộ.
Bác Hồ thường chú ý sửa đổi lử lối là m việc, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Tôi nghĩ rằng Bác chống chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, thiển cận, tách rời cá nhân với cộng đồng, song đồng thời Bác cũng đử cao tính tự trọng, chí tiến thủ và ý thức khẳng định mình của mỗi người.
Tôi đã suy nghĩ vử điửu nà y trong những giử phút thiêng liêng nhất của đời tôi: Trong những lần gặp Bác, trong ngà y tôi được kết nạp và o Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua lần thứ nhất và o ngà y Quốc tế lao động năm 1952. Tại đại hội liên hoan anh hùng chiến sĩ thi đua toà n quốc lần thứ nhất ấy tôi đã được Bác tuyên dương và tập thể bầu là Anh hùng lao động.
Vinh dự to lớn đó thuộc vử anh em cán bộ công nhân ngà nh quân giới,thuộc vử nhân dân lao động, trong đó nhử sự chỉ bảo ân cần của Bác tôi đã đóng góp một phần.
Tôi thường nghĩ, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện qua hai cuộc kháng chiến già nh lại độc lập hoà n toà n cho Tổ quốc, Việt Nam đã chứng tử với thế giới rằng đó là một dân tộc không hử kém cửi vử ý chí và trí thông minh, sáng tạo. à chí đó không duy tâm siêu hình mà rất có cơ sở khoa học. Trong chiến tranh cần ý chí, trong xây dựng kinh tế lại cà ng cần ý chí mạnh mẽ hơn.
Trong xây dựng kinh tế - xã hội, lợi quyửn kinh tế của mỗi thà nh viên và cả cộng đồng xã hội là yếu tố quyết định của động lực. Vì vậy, Bác Hồ luôn nhấn mạnh đến lợi quyửn và tính công bằng trong xã hội. Khơi nguồn động lực của mỗi người lao động, kể cả lao động trí óc và lao động chân tay của cả cộng đồng xã hội là một trong những vấn đử cơ bản trong cái bộn bử của cuộc sống hôm nay.
Tôi thật sự hạnh phúc và tự hà o vì được Đảng và Bác Hồ dìu dắt, được đóng góp sức mình và o công cuộc giải phóng đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vô cùng thân yêu của chúng ta.