Đình Lũng Kinh (huyện Hoài Đức)
Đình Lũng Kinh còn có tên gọi là đình Lũng Kênh, thuộc xã Đức Giang, huyện Hoài Đức. Trước đây, Lũng Kinh có tên gọi là Hoa Kinh, tổng Kim Thìa, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông.
Đình có kết cấu theo kiểu chữ “đinh” gồm Đại bái và Hậu cung. Trước khi vào Đại bái, qua cổng đình được làm theo kiểu “tam quan” chùa, xây vòm theo lối chồng diêm, 4 mái đắp giả ngói ống, trên bờ nóc đắp mâm rượu với lá cách điệu ở hai đầu. Cổng chính cao hơn 2 cổng bên ngăn cách bởi cột gạch. Qua một khoảng sân là tới Đại bái, toà nhà này gồm 5 gian với 4 mái đắp đao, tường hồi gắn với cột trụ. Hai đầu bờ nóc đắp con rồng lá Makara, một con vật linh, chủ của nguồn nước, cuối bờ dải đắp các con lân gắn mảnh sứ. Vào bên trong, các bộ vì làm theo kiểu thức “giá chiêng chồng rường”. Các bức cốn tại gian giữa chạm khắc tứ linh ở mặt trước, mặt sau chạm hoa lá, các cốn ở gian bên thì đơn giản hơn. Tại các kẻ rường ngoài soi gờ chạy chỉ, đôi chỗ chạm vân xoắn. Các bẩy chạm rồng cách điệu và hoa lá... Riêng tại các đầu dư chạm lộng đầu rồng mang phong cách thời Nguyễn.
Nối từ gian giữa Đại bái về phía sau là Hậu cung tạo thành hình “chuôi vồ”. Hậu cung kết thúc bằng tường hồi bít đốc, bộ khung cơ bản là vì nóc “chồng rường” trên hai hàng chân cột cái, các con xà nách gối ngay lên tường. Các mảng chạm khắc chủ yếu là chạm nổi tứ linh, mây xoắn và hoa lá. Bên trong Hậu cung xây bệ gạch để bài trí long ngai bài vị và các đồ tế tự khác như 7 đạo sắc phong của ba triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn, hai bộ cửa võng sơn son thếp vàng, hương án, hoành phi, câu đối, bát hương đồng... Nhìn chung, đình Lũng Kinh mang phong cách kiến trúc thế kỷ XVIII.
Đình Lũng Kinh thờ đức thành hoàng là Trịnh Tích. Ông vốn sinh ra trong một gia đình nghèo ở châu Hoan (Nghệ An) vào thời Hùng Vương thứ 18. Thuở nhỏ, ông là người thông minh hiếu học, tinh thông văn võ. Khi Thục Phán định cướp ngôi, ông đã chiêu mộ nghĩa binh chống lại nhưng không thành nên đã học đạo tu tiên. Khi tuổi cao, gặp lúc Triệu Đà xâm lược, ông lại chiêu mộ các trai tráng và các tù trưởng các vùng xung quanh nổi dậy chống giặc. Trong một trận chiến, ông đã hy sinh anh dũng. Trải các triều về sau, ông được ban sắc phong thần, tặng phong là Quy Chính thượng sĩ. Nhiều nơi lập đền thờ, trong đó có thôn Lũng Kinh.
Đình đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1991./.
Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 01