Trong Đại Việt sử ký toà n thư chỉ có hai đoạn chép vử Đà o Cam Mộc trong các năm 1009 và 1015. Đoạn năm 1015 vẻn vẹn có một dòng ghi việc ông qua đời và được truy phong là à vương. Đoạn năm 1009 thì nhiửu thông tin hơn và ngòi bút của sử gia Ngô Sĩ Liên ngả sang tính ký sự.
Cổ Loa - mảnh đất từng là nơi danh tướng Đà o Cam Mộc chọn là m tư dinh.
Những sự việc có liên quan đến Đà o Cam Mộc diễn ra như một tấn tuồng ba hồi, có thể đặt tên là Đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Hồi một khá sinh động, có nội dung là họ Đà o thăm dò, gợi ý Lý Công Uẩn để rồi nắm được ý tứ của Lý là chấp nhận việc lên ngôi. Sử chép: Đà o biết Lý Công Uẩn muốn lên ngôi vua, nhân lúc vắng người Đà o hửi để thăm dò: Chúa thượng (Ngọa Triửu) tâm trí u tối, bạo ngược, là m nhiửu điửu bất nghĩa. Trời đã chán, không cho sống lâu, con nối ngôi còn nhử, chưa đảm đương được việc nước. Dân chúng muốn tìm chân chúa. Thân vệ sao không nhân lúc nà y nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc là m của Đinh Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo ý nguyện của dân, cứ bo bo giữ tiểu tiết hay sao?.
Lý Công Uẩn rất thích khi nghe lời nà y, song còn e Đà o Cam Mộc có mưu kế gì nên giả cách mắng rằng: Sao ông lại nói thế, tôi phải bắt ông nộp quan. Đà o thản nhiên nói: Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế cho nên tôi mới dám nói. Nay ông muốn cáo giác tôi, thì tôi không phải là người sợ chết.
Lý Công Uẩn vội nói: Tôi đâu dám cáo giác ông, chỉ sợ lời nói ấy tiết lộ thì chết nên răn ông đó thôi. Sang hồi thứ hai, sử gia cho thấy Đà o đã động viên Lý Công Uẩn, thúc đẩy quyết tâm già nh ngai và ng. Đà o khẳng định lòng dân đã hướng vử Lý và lòng trời cũng đã ngả vử Lý. Điửu nà y vừa củng cố quyết tâm của Lý và hối thúc phải hà nh động ngay kẻo mất thời cơ có một không hai nà y. Sử ghi: Hôm sau, Đà o lại nói: Người trong nước ai cũng bảo họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che giấu được nữa. Chuyển họa thà nh phúc chỉ trong sớm chiửu. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn ngại ngần gì nữa. Lý Công Uẩn nói: Tôi đã hiểu rõ ý của ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu theo như lời ấy thì nên tính kế thế nà o?.
Đà o đáp: Thân vệ là người khoan thứ nhân từ, lòng người chịu theo, hiện nay trăm họ mửi mệt, không chịu nổi. Thân vệ nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ vử thì người ta tất xô nhau kéo vử như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được. Hồi thứ hai nà y cho thấy không riêng gì Đà o Cam Mộc mà Vạn Hạnh cũng khuyên Lý phải hà nh động và hẳn Lý đã có kế hoạch nhưng còn thiếu người là m ngòi nổ. Nay người đó chính là ông Chi hậu họ Đà o nà y. Chi hậu là chức quan trong nội đình (sau nà y Lý Thường Kiệt cũng từng giữ chức Chi hậu), tất phải có thế lực, lực lượng hậu thuẫn hẳn cũng không phải ít, đủ sức khống chế các triửu quan. Và thế là chuyển sang điểm đỉnh.
Hồi thứ ba quyết định sự thà nh công của cuộc đảo chính. Sử ghi: Ngay ngà y hôm đó, Đà o Cam Mộc nói với triửu thần rằng hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo vử vua nối mà đửu có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc nà y cùng nhau sách lập Thân vệ là m thiên tử, lỡ bối rối có xảy tai biến gì, chúng ta có giữ được cái đầu không? Mọi người vui vẻ nghe lời, dìu Lý Công Uẩn lên điện, tôn lên ngôi Hoà ng đế, trăm quan đửu quử³ dưới sân, tung hô vạn tuế. Theo sử ghi như vậy thì: Cuộc thay ngôi diễn ra nhanh chóng.
Vai trò của Đà o Cam Mộc như vậy thực là quan trọng. Chắc chắn là ông đã ngầm vận động các triửu thần và chắc chắn đã nắm chắc lực lượng vũ trang nên mọi người (mới) vui vẻ nghe theo như sử đã ghi. Thực tế trong triửu tất thể nà o cũng còn hoà ng thân quốc thích nhà Lê cùng những kẻ cận thần sủng ái của Ngọa Triửu. Vậy mà cuộc đảo chính diễn ra êm thấm, vui vẻ không có một phản ứng thì đủ tử sức sắp đặt, bà i binh bố trận tà i tình của Đà o Cam Mộc.
Tất nhiên phải có cả tác động của sư Vạn Hạnh. Có điửu là sử không hử ghi chép gì. Vai trò họ Đà o quan trọng như vậy mà gốc gác quê hương không tử. Trước đây các nhà nghiên cứu vẫn coi ông Đà o là người Bắc Ninh, đồng hương với vua Lý. Nhưng tra thần tích 16 xã huyện Tiên Du và 10 xã huyện Từ Sơn đửu không thấy nơi nà o thử Đà o Cam Mộc. Chỉ khi đọc trên tử báo Thăng Long - Hà Nội văn hiến số 43, xuất bản tháng sáu năm 2007, bà i Thái sư à vương Đà o Cam Mộc của Lê Thà nh Hiểu, mới biết quê nội của ông là là ng Trà ng Lang, nay thuộc xã Định Tiến huyện Yên Định, Thanh Hóa và quê ngoại là là ng Nam Thạch cùng huyện. Không biết có tà i liệu nà o đử cập tới vấn đử nà y trước đó không? Gần đây tôi có vử lại các nơi nà y để tìm hiểu thì thực tế thu nhận được như sau: Ngay ở quê nội và ngoại đó nhiửu người già không hử biết là là ng mình có ông Đà o Cam Mộc.
Chỉ gần đây, nhiửu người tìm vử hửi han họ Đà o, thế là người hai là ng trên đửu công nhận sự thể đó. Có điửu là đửn thử - coi là đửn Đà o Cam Mộc - thì ở cả hai nơi đã bị phá từ thời nà o rồi, và i năm gần đây mới là m lại và không còn thần tích, thần phả, kể cả bà i vị Đà o Cam Mộc cũng không có. Ở quê Trà ng Lang có một số sắc phong nhưng là của các vị thần khác. Ở quê Nam Thạch cũng không còn thần tích, sắc phong, chỉ có hai ngai ở trong đặt bà i vị nhưng chẳng có chữ. Tại Trà ng Lang có họ Đà o nhưng lại từ nơi khác đến cư ngụ mới khoảng bảy tám đời. Còn Nam Thạch không có họ Đà o.
Tuy nhiên, ở Nam Thạch có một ông già kể, cụ Đà o Cam Mộc quê nội là Trà ng Lang nhưng từ nhử đã mồ côi cha, nên vử ở quê mẹ. Nhà nghèo phải mò cua bắt ốc để sinh sống, được cái là Đà o rất khửe. Một hôm thuyửn vua Lê Đại Hà nh qua là ng bị cạn, quân lính không sao kéo thuyửn đi được. Đang lặn ngụp dưới sông, Cam Mộc liửn ghé vai nâng thuyửn lên và thế là thuyửn dịch chuyển được. Vua Lê bèn tuyển Cam Mộc và o đội vũ sĩ. Và thế là từ đấy chà ng Đà o theo vua Lê đi chinh chiến, trở thà nh tướng giửi.
Quê hương bản quán vị khai quốc công thần nhà Lý, như vậy còn nhiửu vấn đử lớn chưa tường được. Mong các nhà sử học xác minh thêm, cũng như thập phương cung cấp được tư liệu gì...
Là m được điửu nà y cũng là góp phần tìm ra diện mạo người có công với đất Thăng Long.