à”ng khẩn thiết tuyên bố thương mại quốc tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với các nửn kinh tế do đó Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng rất quan trọng đối với các nước Ảrập.
Đây chỉ là một trong rất nhiửu lời kêu gọi khác mà ông Pascal Lamy đã đưa ra trước và sau đó, kêu gọi nối lại vòng đà m phán Doha, vốn đã lại rơi và o bế tắc từ hồi tháng 7/2008 .
Cùng với khủng hoảng kinh tế, những đòi hửi bảo hộ nửn sản xuất nội địa có nguy cơ lan rộng.
Trong thời kử³ khủng hoảng kinh tế, hà ng hóa sản xuất trong nước không xuất khẩu được ra thị trường nước ngoà i do nhu cầu tiêu thụ của thế giới sụt giảm, sản xuất kinh doanh bị đình đốn, các doanh nghiệp và người dân thường có khuynh hướng ủng hộ các chính sách bảo hộ nửn kinh tế sản xuất trong nước bằng cách yêu cầu chính phủ sử dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước, đảm bảo công ăn việc là m cho người dân.
Chủ nghĩa bảo hộ đang quay trở lại
Mử¹ là một quốc gia điển hình cho sự quay trở lại của chủ nghĩa bảo hộ. Mới đây Hạ viện Mử¹ đã chấp thuận kế hoạch cứu kinh tế của Tổng thống Obama với tổng trị giá 819 tỷ USD kèm theo điửu kiện "bảo hộ" ngà nh sản xuất thép trong nước: bản dự thảo yêu cầu tất cả các dự án cơ sở hạ tầng dùng tiửn từ kế hoạch phải sử dụng sắt và thép sản xuất tại Mử¹.
Các nhà sản xuất sắt thép, những công nhân trong ngà nh nà y của Mử¹ sẽ rất vui mừng và hạnh phúc khi doanh thu và lợi nhuận của họ sẽ được tăng lên nhử và o chính sách bảo hộ nà y.
Tuy nhiên các nhà kinh tế lại lo ngại rằng nếu các quốc gia đang xuất khẩu sắt thép và o Mử¹ áp dụng biện pháp trả đũa thương mại bằng cách yêu cầu các dự án trong nước không sử dụng hà ng nhập khẩu từ Mử¹ chuyện gì sẽ xảy ra? Những nhà nhập khẩu của Mử¹ sẽ bị mất việc là m, những nhà thầu xây dựng của Mử¹ sẽ phải mua sắt thép với giá cao hơn và cuối cùng là sự sụp đổ thương mại của Mử¹ và các nước còn lại trên thế giới ....
Dưới sức ép của những chủ trang trại nuôi tôm nội địa Mử¹, những con tôm nà y để và o được thị trường Mử¹ sẽ phải chịu thêm một khoản thuế chống bán phá giá. Nhưng gánh chịu hậu quả nặng nử nhất của loại thuế nà y có thể lại là những công nhân chế biến. |
Nhiửu nhà kinh tế lẫn các nhà hoạch định chính sách đang lo ngại sự trở lại của bóng ma bảo hộ đó, đặc biệt trong thời kử³ kinh tế suy thoái, khi những yêu sách bảo hộ hà ng nội địa ngà y cà ng gay gắt hơn.
Tại diễn đà n kinh tế thế giới tổ chức tại Davos, lãnh đạo các quốc gia lớn trên thế giới đửu nhấn mạnh cam kết mở cửa.
"Chính sách bảo hộ thương mại chỉ khiến cuộc khủng hoảng hiện nay cà ng kéo dà i và tồi tệ thêm". Thủ tướng Trung Quốc à”n Gia Bảo. "Khi các nước rơi và o khủng hoảng, phản ứng đầu tiên là phải bảo hộ thương mại. Tuy nhiên, đây là phản ứng hoà n toà n sai lầm".Bộ trưởng Thương mại Ấn Độ Kamal Nath |
Tuy nhiên, nỗi ám ảnh và lo sợ sự quay lại của bóng ma bảo hộ không phải là không có cơ sở khi mà ngay cả chính nửn kinh tế lớn nhất thế giới, vốn được xem là đầu tà u của tự do hóa thương mại là Hoa Kử³ trong thời kử³ khủng hoảng cũng đang muốn quay trở lại với chủ nghĩa bảo hộ dưới sức ép của các nhóm lợi ích trong nước.
Các nhà kinh tế ủng hộ tự do hóa thương mại cho rằng nếu Mử¹ đơn phương áp dụng chủ nghĩa bảo hộ đối với các ngà nh sản xuất trong nước và các quốc gia khác "trả đũa" lại thì thương mại toà n thế giới sẽ sụp đổ.
Một bóng ma
Năm 1929, khi Mử¹ rơi và o cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử, hai nghị sĩ ủng hộ tư tưởng bảo hộ của Đảng Cộng hòa là Willis Hawley và Reed Smoot đã đử xuất một dự luật nhằm bảo vệ sản xuất trong nước bằng cách nâng thuế nhập khẩu lên một mức cao chưa từng có trong lịch sử kinh tế Mử¹.
Dưới sức ép của những tiếng kêu gà o đòi được "bảo vệ công ăn việc là m" của giới lao động trong nước Dự luật bảo hộ thương mại đó đã được Quốc hội thông qua.
Hậu quả là sự thu hẹp của thương mại Thế giới (dĩ nhiên trong đó có cả Hoa Kử³) khi các quốc gia khác cũng áp dụng các biện pháp "trả đũa" bằng cách nâng cao thuế quan tương tự. Giao dịch thương mại thế giới giảm hai phần ba trong khoảng 1929 “ 1934 khi mà các nửn kinh tế lớn trên thế giới sử dụng các biện pháp thuế quan để ngăn cản hà ng nhập khẩu của các quốc gia khác.
Chủ nghĩa bảo hộ với những biện pháp của chính phủ nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh với nước ngoà i có một nguồn gốc sâu xa trong lịch sử kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
Những người ủng hộ chủ nghĩa bảo hộ cho rằng việc cản trở nhập khẩu từ nước ngoà i sẽ khuyến khích người dân tiêu dùng hà ng nội địa và qua đó sẽ khuyến khích sản xuất trong nước, giúp nửn kinh tế tránh khửi cuộc khủng hoảng kinh tế từ bên ngoà i.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế cho rằng chủ nghĩa bảo hộ luôn đi liửn với cái giá phải trả rất lớn khi thương mại bị ngưng trệ do các hà nh động bảo hộ sai lầm đó.
Lịch sử đã ghi nhận lại nhiửu hậu quả tai hại cho nửn kinh tế do chủ nghĩa bảo hộ. Nửa đầu thế kỷ 19, nước Anh đã áp đặt thuế quan nhập khẩu để "bảo hộ" cho người nông dân và điửn chủ Anh trước sự cạnh tranh của hà ng ngũ cốc nhập khẩu rất rẻ từ nước ngoà i. Song mức thuế quan nhập khẩu đó đã là m tăng giá thực phẩm ở các thà nh phố ở Anh, buộc tư bản công nghiệp miễn cườ¡ng phải trả lương cao hơn để công nhân có đủ tiửn mua lương thực. Năm 1846, sau một cuộc đấu tranh lâu dà i tại Quốc hội, các Đạo luật Bảo hộ sản xuất ngô (Corn Laws) mới bãi bử.
Nhìn lại Đại suy thoái kinh tế 1930, các nhà kinh tế cho rằng sai lầm lớn nhất của các nhà hoạch định chính sách trong việc phản ứng với nửn kinh tế trong thời kử³ Đại suy thoái là "đóng cửa" thương mại bằng việc sử dụng các rà o cản thuế quan và các biện pháp bảo hộ mang tính chất kử¹ thuật như yêu cầu các nhà sản xuất trong nước chỉ sử dụng hà ng nội địa. Giao dịch thương mại thế giới giảm hai phần ba trong khoảng 1929 “ 1934 khi các biện pháp thuế quan để ngăn cản hà ng nhập khẩu được áp dụng.
Nếu nguời trồng lúa không mua quần áo của thợ may thì nguời thợ may sẽ không có tiửn để tiửn để mua vải của thợ dệt và dĩ nhiên bác thợ dệt sẽ không có tiửn để mua gạo của nông dân. Tình trạng người dân trong một quốc gia không được tự do giao thương với nhau là hình ảnh của việc "ngăn sông cấm chợ", hậu quả sẽ là người dân sẽ không muốn sản xuất vì không thể bán được hà ng.
Điửu gì áp dụng với nội thương thì cũng có thể áp dụng đối với ngoại thương. Giả sử như chủ nghĩa bảo hộ thắng thế trên toà n thế giới thì quốc gia A sẽ không sử dụng sắt và thép nhập khẩu từ một nước B và quốc gia B sẽ không có tiửn để mua phần mửm được sản xuất từ quốc gia A.
Nếu tất cả các quốc gia trên thế giới đửu áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại thì thương mại song phương và đa phương giữa hai quốc gia với nhau hay giữa các quốc với nhau sẽ rơi và o tình trạng thu hẹp, thậm chí đình trệ hoà n toà n. Hậu quả của nó đó là xuất nhập khẩu bị sụp đổ, hà ng hóa bị ứ đọng do không bán được, thất nghiệp lan trà n, người tiêu dùng phải mua hà ng hóa với giá đắt đử.
Nhiửu nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra rằng mọi biện pháp "ngăn sông cấm chợ" nội thương hay bảo hộ thương mại trong ngoại thương đửu dẫn đến hậu quả GDP của toà n thế giới sụt giảm.