Khu phố cổ lại hình thà nh từ lâu đời, là hạt nhân, là cái lõi của Kinh đô xưa, là nơi tứ chiếng quần cư, thu hút tà i tử giai nhân ở khắp nước vử sinh cơ lập nghiệp. Khu phố cổ là nơi tiếp thu mọi tà i hoa của khắp các địa phường, nhà o nặn lại, nâng cao lên theo yêu cầu của đời sống dân tộc. Chính vì vậy, để thu hút tinh hoa khắp mọi miửn, người dân ở khu phố cổ Hà Nội đã trở thà nh biểu hiện tập trung nhiửu đức tính tốt đẹp, thể hiện trong đời sống tinh thần và vật chất, rõ nhất là đời sống văn hóa. Đó chính là đặc trưng "Văn hóa khu phố cổ".
Thời cũ - phong kiến và Pháp thuộc - người khu phố cổ coi như đại diện cho người Hà Nội, từ ăn, mặc, nói năng, giao tiếp ứng xử đến thưởng thức nghệ thuật, giải trí... Nói chính xác hơn là đại diện cho phong tục ứng xử của người Hà Nội, cho văn hóa kinh kử³. Thuở đó, người Hà Nội có nếp sống, nếp cư xử thanh lịch trong sinh hoạt cũng như trong là m ăn, những đức tính trên là do lối sống có văn hóa mà có. Nhã nhặn, tôn trọng người đối thoại, chăm chút cái ăn, cái mặc, lời ăn tiếng nói, quan tâm và trọng thị bạn bè... Một thuở lớp thanh niên cùng trang lứa gọi nhau là anh - tôi (chứ không mà y - tao), bậc trung niên trở lên trong những trường hợp sơ giao thương gọi nhau bằng "ông", thân thì là "bác", còn phụ nữ, dù người đối thoại có ít tuổi hơn chút ít cũng gọi là chị xưng em... Đó là cách cư xử đối với bản thân.
Tà u điện leng keng trên Phố Hà Nội xưa
Còn đối với cộng đồng, người Hà Nội khu phố cổ rất tôn trọng cộng đồng vì họ vốn là người bốn phường vử đây tụ hội. Không đoà n kết, nhường nhịn, đử cao cộng đồng thì khó tồn tại. Với họ, "người hà ng phố" sát cánh nhau, cũng thân thiết chẳng khác gì "người hà ng xóm" khi còn ở là ng quê. Trong cuộc sống hằng ngà y, họ chia sẻ với nhau nỗi buồn và niửm vui. Hà Nội có câu: Văn ai tất điếu, nghe tiếng khóc là đến hửi thăm. Họ giữ hòa khí, cận duyệt viễn lai, ở gần đẹp lòng, ở xa muốn đến. Cả phố tránh mất lòng nhau, "chín bử là m mười", giữ gìn cho nhau, đi vắng thì "gửi nhà nhau". (Mãi vử sau nà y đến tận những năm chống Mử¹ 1965 - 1975, đi sơ tán gửi nhà nhau vẫn là chuyện thường thấy). Ra quét hè, tiện chổi, quét sang cả cho hè hà ng xóm. Bà dặn cháu: Chớ có "được lòng ta, xót xa lòng người". Cha dạy con: "Cái mà mình không muốn thì đừng là m cho người".
Tất nhiên, không phải ai cũng được vậy. Vì có một bộ phận chưa thấy thanh lịch là cần, cho nên chưa tự điửu chỉnh mình, chưa rũ bử những lử thói thô phác, dữ dằn. Những người ấy không được coi là "người Trà ng An". Một cách ứng xử cũng rất Hà Nội là lòng hiếu khách. Ngà y trước, trong những ngà y hội hè lễ tiết, thi cử, khách thập phường kéo vử Hà Nội rất đông. Nhưng không bị coi thường mà ngược lại, Thăng Long - Hà Nội đã sắp sẵn nước nôi, một vò chè vối, một nồi chè tươi được đặt bên hè, chén bát sạch sẽ để khách các nơi tiện viec giải khát. Tết Trung thu, nhiửu nhà bà y cỗ xong rồi khi vãn cuộc còn mời cả khách đi xem cỗ cùng tham gia phá cỗ. Đây là những dịp để người Hà Nội tử lòng mến khách và cũng là dịp khách cảm nhận rõ hơn những nét đáng yêu của người Trà ng An thanh lịch. Chẳng thế mà ca dao cổ có câu:
"Nhất cao là núi Ba Vì/Nhất thanh, nhất sắc, kinh kử³ ThăngLong".
Chỉ khoảng năm bảy chục năm lại đây, tức là thời hiện đại, tập quán ứng xử có những biến động. Những biến động ấy chắc chắn có ảnh hưởng đến hệ phong tục tập quán cổ truyửn còn đọng lại, cũng như đến hệ phong tục tập quán Hà Nội đương đại. Trước hết, đó phải là sự xáo trộn cư dân, cả trong những năm tháng chiến tranh lẫn trong "thời kử³ hậu chiến". Và sau đó, sẽ là những luồng tác động của văn hóa và lối sống ngoại nhập ở "thời kử³ mở cửa" - những thập niên cuối thế kỷ XX.
Hử† ử¨NG Xử¬ QUà TẢI
Hiển nhiên, một hiện tượng thu nhận mạnh mẽ các luồng nhập cư từ mọi miửn xuôi ngược xa gần như thế có những đóng góp tích cực thậm chí đẹp đẽ nữa cho văn hóa Hà Nội, song không thể không là m cho guồng máy tiếp nhận lối sống từ khắp các địa phường vử cho hệ văn hóa Hà Nội phải vận hà nh với một công suất rất cao. Sự tiếp nhận ở mức độ như vậy mà lại diễn ra trong một thời gian nhanh chóng và gấp gáp, tất yếu dẫn đến sự hòa tan hoặc pha loãng những yếu tố căn cốt của hệ phong tục tập quán Hà Nội. Như đối chiếu với những điửu căn cốt của ngôn từ Hà Nội với thực trạng phổ quát ở Hà Nội lúc nà y (chẳng hạn như: nói lẫn n,l, nói nặng, nói tục, chửi bới...) thì có thể thấy ngay và thấy rõ việc tiếp nhận vử cho hệ ứng xử xã hội của Hà Nội những ảnh hưởng của mọi miửn có vẻ như đã là "quá tải", chứ không như ngà y xưa nữa, mặc dù ở ngà y xưa, chuyện tiếp nhận ấy cũng đã thường xuyên xảy ra.
PHA LOàƒNG Và€ Kà‰O Là™I
Chưa bao giử thấy trong lịch sử nghìn năm văn hiến ở khu phố cổ chốn thà nh đô vốn nổi tiếng thanh lịch nà y, văn hóa nói chung, và nếp sống nói riêng lại lộn xộn đến như vậy bởi những yếu tố ngoại lai. Nhất là khi những yếu tố ngoại lai đó gặp được ở đây một "mặt bằng dân trí" đang bị xáo trộn, lại vừa có phần nà o bị "thả nổi" với cơ chế thị trường. Đấy là cơ hội để không chỉ xu hướng "pha loãng" mà cả xu hướng "kéo lùi" (xuống cấp), đặc biệt là ở lĩnh vực ứng xử xã hội phát triển.
Vì thế mới sinh ra những cung cách khinh thị người nghèo hoặc thương dân, khiến cho một "Hà Nội băm sáu phố phường" trang nhã trở nên một đô thị của số "thị dân hãnh tiến", như nhận xét có phần lạnh lùng của một số khách nước ngoà i. Cũng vì thế mới có nhiửu nơi giải trí với những âm thanh "rốc", "ráp" được phóng to hết cỡ hoặc được gà o thét, mà trình diễn với những bộ trang phục nhăng nhố, rồi những biểu hiện thác loạn ở các vũ trường, các quán "karaoke ôm"... rồi lối sống thô lỗ bất chấp pháp luật... những tệ nạn đang là m băng hoại nếp sống thanh lịch ở nơi vốn "lắng hồn núi sông ngà n năm". Cho nên lâu nay nhiửu người đã nói tới việc tiếp tục xây dựng, định hình kiện toà n cho cả hệ phong tục tập quán Hà Nội hiện đại nói chung, lẫn phường tiện phong tục tập quán gia đnh và phong tục tập quán cá nhân nói riêng, trên một "mặt bằng dân trí" ổn định, ngà y cà ng phải được nâng cao.
Muốn vậy: Cần giữ vững và đử cao chuẩn mực xã hội vốn là yếu tố không thể thiếu của việc quản lý xã hội, là một trong những điửu kiện nhất định và cũng là phường tiện để xã hội kiểm tra những hà nh vi của cá nhân. Việc nà y liên quan đến một vấn đử khá chủ chốt là phải giáo dục pháp luật và giữ vững pháp luật. Thực ra bên cạnh những quan niệm vử đạo đức, ý thức pháp luật luôn là xuất phát điểm tạo nên hà nh vi của mỗi con người. à thức pháp luật tạo nên cách nhìn của con người vử một hà nh vi nà o đó là đúng hay sai, phải xử lý hà nh vi đó như thế nà o.
à thức pháp luật được xem như là sự nhạy cảm của con người trước quyửn lợi và nghĩa vụ của mình đối với xã hội, nhằm đạt được sự cân bằng cho xã hội và cho mỗi người. Vậy mà muốn tạo nên được những ý thức pháp luật trong xã hội thì phải xây dựng hệ tư tương cũng như tâm lý đạo đức hướng thiện. Chỉ có trên cơ sở ý thức đạo đức mà hình thà nh ý thức pháp luật thì ý thức đó mới bửn vững. Một hệ luận có thể rút ra là chính với ý thức tôn trọng pháp luật, bằng vai trò điửu chỉnh các hà nh vi, từng cá nhân có thể tự tạo hà nh lang an toà n cho mọi hoạt động đa dạng trong cuộc sống. Như vậy, chính pháp luật đã góp phần hình thà nh con người văn minh. Xét đến cùng đó là sự giáo dục tính tự giác. Có tự giác mới điửu chỉnh được hà nh vi, hình thà nh nhân cách tốt đẹp. Cho nên giáo dục tính tự giác là điửu thật sự cần thiết cho việc rèn người. Ai cũng tự giác thì mặc nhiên hình thà nh sự tôn trọng chuẩn mực đạo đức.