Đó được cho là nguyên văn phát biểu của chánh văn phòng UBND tỉnh Hưng Yên khi trả lời phửng vấn của báo chí, quanh vụ hai nhà báo của đà i Tiếng nói Việt Nam bị lực lượng cườ¡ng chế thu hồi đất tại Văn Giang hà nh hung trong lúc đang tác nghiệp.
Dư luận rất bức xúc trước kiểu nói nà y. Bởi, ai cũng biết và , suy cho cùng, buộc phải biết rằng ngoà i trường hợp phạm pháp quả tang, thì việc sử dụng vũ lực để thực thi công vụ ở nơi công cộng chỉ được pháp luật cho phép trong các trường hợp cần phải ngăn chặn hoặc vô hiệu hoá sự chống đối hoặc cản trở cũng bằng vũ lực của người nà y, người nọ.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Năm - trưởng phòng phóng viên thời sự, chính trị, kinh tế của Đà i Tiếng nói Việt Nam - người bị lực lượng cườ¡ng chế thu hồi đất Văn Giang hà nh hung. (ảnh: TTO)
Vả lại, sức mạnh trấn áp của quyửn lực công, cái theo giả thiết chỉ nhằm phục vụ cho việc bảo đảm và duy trì trật tự xã hội, không thể được sử dụng tuử³ thích, mà phải theo quy trình và có mức độ thích hợp, tuử³ giai đoạn, tình huống. Trước hết, nếu thấy người không có liên quan đến vụ việc mà cứ chà ng rà ng tại hiện trường, thì phải mời họ đi chỗ khác; nếu họ không tự giác đi ra, thì tiến hà nh khống chế và trục xuất; và nếu họ có hà nh vi chống đối, thì mới có thể bị trấn áp bằng vũ lực một cách thích ứng, với mục đích duy nhất là triệt tiêu mối nguy hiểm mà họ có thể gây ra cho người thi hà nh công vụ.
Các quy tắc nà y được áp dụng bất kể chủ thể chống đối hoặc cản trở là ai, có liên quan hay không có liên quan đến vụ việc, quan chức hay thường dân. Đáng lý ra, vấn đử phải là những người bị đánh có được quyửn lui tới hiện trường và có hà nh động gì tử ra đe doạ tới sự an toà n của lực lượng thi hà nh công vụ hay không, chứ không phải họ có là hoặc có xưng là nhà báo hay không trong lúc bị đánh.
Không chỉ bức xúc, dư luận đồng thời còn ngạc nhiên vì cách đặt vấn đử kử³ quặc và hoà n toà n phi logic ấy lại có tác giả là một quan chức có cỡ của một tỉnh, và được lồng trong lời phát ngôn chính thức nhân danh nhà chức trách trong khuôn khổ giải trình công khai vử sự việc. Có thể người nói chưa có kinh nghiệm đối đáp trước giới truyửn thông nên dễ lúng túng; hoặc có khả năng do hiểu biết kém cửi mà nói sai; hay cũng có thể vẫn biết, vẫn tỉnh táo, nhạy bén và đã chuẩn bị từ trước để nói như thế.
Rõ rà ng, cái đáng lo từ câu chuyện, cũng như từ những chuyện tương tự xảy ra gần đây và được báo chí đưa tin, không chỉ dừng lại ở nguy cơ lạm dụng quyửn dùng vũ lực của người thi hà nh công vụ trong xử lý các vụ việc rối rắm trong đời sống xã hội, đặc biệt là các tình huống nhạy cảm liên quan đến đất đai, giải toả và đửn bù. Người ta còn nhận thấy, qua thái độ ứng xử của một số quan chức khi giao tiếp với công chúng, sự tầm thường, nếu không muốn nói là sự thấp kém cả vử năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức công vụ của người được giao chức năng quản trị, điửu hà nh, đang có dấu hiệu lây lan trong hệ thống.
Phải thấy rằng các mối quan hệ trong giao tiếp của cơ quan công quyửn với chủ thể được quản lý cà ng lúc cà ng trở nên tinh tế, phức tạp; một phần do nhận thức xã hội, pháp lý của người dân, theo sự phát triển kinh tế và quá trình hội nhập của đất nước, đã được nâng cao đáng kể. Đặc biệt, ý thức của người dân vử việc bảo vệ các quyửn của chủ thể, nhất là quyửn sở hữu tà i sản bằng công cụ luật pháp ngà y cà ng tốt hơn. Trong hoà n cảnh đó, một bộ máy quản lý với nhiửu vị trí yếu kém lại có thiên hướng hà nh động tuử³ tiện, lộng quyửn dễ khiến cho quyửn lực công trong nhiửu trường hợp bị đặt ở vị trí đối đầu với dân thường trong cuộc xung đột lợi ích. Với tình trạng ấy cộng thêm nạn ăn nói hồ đồ khi tiếp xúc với công luận, sự giảm sút lòng tin của người dân đối với chính quyửn là khó tránh.