Thủy Trú xưa thuộc tổng Bạch Sam, huyện Duy Tiên, phủ Lý Nhân, trấn Sơn Nam Thượng. Nay Thủy Trú thuộc xã Bạch Hạ, huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội. Là làng Việt cổ có từ thời Hùng Vương dựng nước, làng có ngôi đình xây dựng cách nay 147 năm thờ thần Quý Minh Đại Vương - một trong ba vị Thánh Tản. Đình còn lưu giữ cuốn Thần phả và 19 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến ghi lại công lao của thần Quý Minh Đại Vương. Đình đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa tháng 8/2000.
Sự tích Thành hoàng
Làng Thủy Trú nằm bên dòng Lương Giang cổ xưa, là nơi có nhiều di tích kiến trúc như: Đình làng thờ thần Quý Minh Đại Vương, chùa thờ Phật. Đặc biệt là đình làng có cuốn Thần phả nói về sự tích tam vị Thành hoàng ở đình là thần Quý Minh Đại Vương; Thủy Tinh tôn thần phu nhân và Thạch Duyên tôn thần phu nhân. Về sự tích thần Quý Minh Đại Vương được truyền lại như sau:
Ở động Lẵng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây có hai anh em họ Nguyễn tuổi đã cao nhưng chưa có con. Tuy nhà nghèo nhưng hay làm việc thiện. Một ngày xuân, vợ chồng hai anh em lên núi Tản Lĩnh cầu phúc, và đã linh ứng. Trở về nhà, hai bà đã mang thai. Mười hai tháng sau, vợ người anh sinh một con trai; vợ người em sinh đôi được hai người con trai. Ba người con đều khôi ngô tuấn tú khác thường. Tròn một trăm ngày, họ đặt tên người anh cả là Tuấn, anh hai là Sùng và người em thứ ba là Hiến.
Đình làng Thủy Trú
Ba anh em được tiên sinh Hoa Đường dạy dỗ chu đáo, vốn thông minh nên văn võ song toàn nổi tiếng. Nhân dân trong vùng tôn là thánh nhân xuất thế. Sau khi cha mẹ lần lượt từ trần, ba anh em rủ nhau lên núi Tản Lĩnh mưu sự nghiệp lớn cho dân cho nước. Ở đây ba anh em được nữ thần núi là Ma Thị Cao nhận làm con nuôi, và bà quý như con đẻ. Bà đã trao khu rừng núi cho ba anh em cai quản.
Do tài năng và đức độ, người anh cả Tuấn được Tinh Thái Bạch trao cho trúc trượng có đầu sinh, đầu tử và cuốn sách ước để giúp dân. Đi đến đâu các vị cũng giúp dân cứu nạn, chống lũ, chống hạn, làm việc thiện, uy danh lừng lẫy khắp nơi và được nhân dân tôn làm Tam vị Thánh Tản. Đó là Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương và Quý Minh Đại Vương.
Thời đại Hùng Vương, Quốc hiệu Văn Lang đóng đô ở Phong Châu. Đời vua Hùng thứ 18 là Hùng Duệ Vương, có nàng công chúa út là Mỵ Nương đến tuổi trưởng thành, nhà vua dựng lầu kén rể ở Phong Châu.
Tản Viên Sơn Thánh cùng hai em đến dự tuyển. Qua thử tài, Tản Viên là người văn võ song toàn và có nhiều phép lạ, là người giỏi nhất thiên hạ. Vua Hùng xuống chiếu ban làm Phò Mã sánh duyên cùng công chúa Mỵ Nương. Còn Cao Sơn và Quý Minh được phong tướng trong triều. Đất nước thanh bình, vua sáng tôi hiền, nhân dân được sống cảnh thái bình hạnh phúc ấm no.
Một lần nhà vua cùng Quý Minh đi chu du sông biển… Đến trấn Sơn Nam Thượng, qua làng Thủy Trú thấy nơi đây sông nước uốn lượn, dáng rồng hổ bao quanh, ruộng đất nhiều và màu mỡ do phù sa sông Cái bồi đắp, nhân dân giàu có đủ đầy và đông đúc, Quý Minh tâu với nhà vua cho lập hành cung ở đây. Ông cũng xin nhà vua cho xây dựng đội thủy binh, đồn trú tại dòng Lương Giang. Nhà vua chuẩn tấu. Đội thủy binh đóng trên đoạn sông từ Thủy Trú xuôi xuống làng Hòa Thượng dài trên 1km.
Đường vào đình làng Thủy Trú
Tại đây, ông khuyến khích người dân làm ruộng cấy lúa, trồng dâu nuôi tằm… làm việc thiện, trừ hại, lấy nhân nghĩa củng cố lòng dân, lấy hòa mục dựng xây phong tục đẹp, xây dựng xóm làng trở thành trù phú. Ông có công lao với dân trong một vùng rộng lớn đồng thời xây dựng đội thủy binh hùng mạnh để bảo vệ đất nước.
Một thời gian sau đó ở Bộ Ai Lao có Thục Phán, nhận thấy vua Hùng không có người kế vị ngôi báu, nên chúng đem quân xâm lược Văn Lang hòng cướp ngôi vua… Nhà vua triệu tập tướng lĩnh, trong đó có tam vị thánh Tản. Nhà vua giao cho Tản Viên Sơn Thánh đứng đầu quân đội, Cao Sơn, Quý Minh làm tướng chỉ hủy bộ binh và thủy binh các hướng đánh đuổi quân Thục Phán.
Từ đây, đội thủy binh do Quý Minh chỉ huy xuất phát phối hợp cùng các cánh quân thủy, bộ các hướng tiến đánh quân Thục Phán. Quân Thục bị đánh tan tác trên các mặt trận, quân sĩ một phần bị tiêu diệt, số còn lại buộc chúng phải tháo chạy về nước.
Thắng trận trở về, nhà vua ban thưởng và phong cho Sơn Thánh là Nhạc phủ kiêm Thượng Đẳng Thần; phong cho Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương Thượng Đẳng Thần.
Thần Quý Minh Đại Vương, sau chiến thắng trở về hành cung ở vùng Thủy Trú nơi có đội thủy binh do ngài lãnh đạo.
Quân Thục Phán chưa từ bỏ ý đồ xâm lược Văn Lang. Ít lâu sau, chúng huy động 20 vạn quân tái xâm lược. Vua Hùng lại cử Tản Viên cùng Cao Sơn, Quý Minh chỉ huy tướng sĩ, phối hợp thủy bộ tiến đánh quân Thục Phán ở các mặt trận. Quân Thục Phán một lần nữa đại bại, và từ đó chúng từ bỏ dã tâm xâm lược Văn Lang.
Do vậy, trong tâm thức dân gian truyền lại về sự tích ba vị Đại Vương là một và một cũng là ba. Họ hóa thân vào tâm huyết tôn vinh của người Việt trong bảo vệ và dựng xây đất nước.
Thần phả đã ghi sự tích trên, đời sau nhân dân đã xây dựng miếu thờ, tôn Quý Minh Đại Vương làm Thành hoàng. Thần Quý Minh Đại Vương trong văn hóa tâm linh là vị vua tinh thần của làng từ thuở hồng hoang đã sinh cơ lập nghiệp ở đây. Do đó làng đã xây miếu, sau này xây đình để thờ từ đó đến nay làm tấm gương cho các thế hệ ghi nhớ và noi theo.
Thủy Trú là làng Việt cổ có các dòng họ như: Hoàng, Lê, Nguyễn, Đỗ, Lại. Đình còn lưu giữ một bản Thần phả bằng chữ Hán, 19 đạo sắc phong, bản xưa nhất niên hiệu Cảnh Hưng 44 (năm 1783), bản gần nhất niên hiệu Khải Định 9 (năm 1924).
Lễ vật dâng ngày giỗ
Một tháng hai kỳ là ngày mồng 1, ngày rằm, dân làng dâng lễ gồm xôi thịt oản quả. Một năm có 4 ngày lễ gọi là “Tứ quý kỳ phúc” vào đầu xuân, đầu hạ, đầu thu và cuối đông. Trong 4 kỳ lễ thì có 2 kỳ lễ lớn là lễ sinh nhật Thành hoàng ngày 12 tháng 5 và ngày giỗ Thành hoàng ngày 12 tháng 11 âm lịch đồng thời cũng là ngày lễ hội lớn của làng.
Lễ hội thường được tổ chức trong 3 ngày từ 12 đến 14 tháng 11 âm lịch. Trong ngày lễ hội, già trẻ trai gái mặc trang phục đẹp, sân đình và miếu cờ hoa rực rỡ. Ngày 12 tổ chức rước kiệu Thành hoàng từ đình ra miếu, làm lễ tế ở miếu, tế xong rước Thành hoàng về đình. Buổi tế lễ ở đình có các làng quan anh, quan em, như các làng Giáp Ba, Giáp Tư, Hòa Thượng cùng bản xã tới dự. Tế hội đồng diễn ra theo nghi thức Cung Đình để tôn vinh công lao của thần đã giúp cho sự bình yên của đất nước, hạnh phúc của muôn dân.
Sau phần lễ, phần hội diễn ra tại sân đình và trên hồ đình với những trò chơi dân gian do người dân sở tại sáng tạo với nhiều trò chơi độc đáo trong 3 ngày… Những nghi lễ đó vẫn duy trì đến ngày nay, làm phong phú thêm đời sống tinh thần, bản sắc văn hóa dân tộc trong cuộc vận động xây dựng nông thôn mới.