Một năm sau là ông ra đi, đến giử là đúng 21 năm. Và năm nay, 2010 cũng là đúng 100 năm ngà y sinh của ông.
Những trang báo đã ố và ng, những bản viết tay in bằng giấy than đã mử nhạt, những tử đánh máy đã mủn ra, những bản phác thảo hằn sâu nếp gấp nằm in trong các tập bìa, những bức thư, nhiửu tấm ảnh, tất cả phủ đầy những lớp bụi theo đúng nghĩa đen, lớp bụi của môi trường hiện tại, lớp bụi của thời gian xa lắc. Và trong những chồng tư liệu đó, những bà i viết, kiến nghị, các bản vẽ đử xuất vử quy hoạch và kiến trúc Hà Nội được ông cắt dán, đóng bìa, vẽ minh họa chiếm một phần không nhử. "Tôi sinh ra ở một ngôi là ng giống như nhiửu là ng quê đồng bằng Bắc bộ. Từ ngoà i nhìn và o chỉ thấy hà ng tre thấp thoáng mái nhà gianh, khác nà o một cù lao xanh giữa bầu trời và đồng ruộng. Đường là ng quanh co thôn xóm, dậu dâm bụt, mồng tơi, dây tơ hồng quấn quýt. Ao bèo, cầu ao bóng nước, già n thiên lý, hà ng cau, khóm chuối, bụi ngâu... tất cả những hình ảnh đó gắn với tuổi thơ mà đến nay đối với tôi, hầu như vẫn giữ nguyên đọng trong trí nhớ", đấy là mấy dòng vử "gốc gác" của mình trong tập hồi ký viết tay.
Như thế, theo cách nói thông thường thì Tạ Mử¹ Duật không phải là người "Hà Nội gốc". à”ng quê ở là ng An Lạc, thuộc phủ Khoái Châu, Hưng Yên, thuở nhử học ở nhà , giáo là ng dạy hết chữ thì lên thị xã Hưng Yên theo tiểu học, rồi sang Nam Định học Thà nh Chung.
Đầu những năm 30, Tạ Mử¹ Duật mới đặt chân đến Hà Nội để thi và o Khoa Kiến trúc Trường Mử¹ thuật Đông Dương. Khi ấy, Hà Nội trong ký ức của ông là "nửa thị thà nh, nửa thôn dã", nhiửu nhà vẫn thắp đèn dầu. "Mình ơi có đi Bử Hồ, cùng ta chén kem kẹo dừa", khu trung tâm thu hút người đời với câu ca truyửn miệng thì hãy còn hoang sơ, "cây cối, cử hoa bám sát mép nước, ngồi ăn kem khách cảm thấy mình gần thiên nhiên, những quán gỗ nho nhử và mặt hồ thênh thang". Bử Hồ với đửn Ngọc Sơn, tháp Bút, nhà Gô đa đã là m ngơ ngẩn chà ng trai tỉnh lẻ. Thêm cái nhà hát của bà "Bé Tý" góc phố Hà ng Bạc - Tạ Hiửn với gấu hai đầu, gà ba chân cà ng gợi sự tò mò. Lọ mọ "phố là ng" với mũ cát trắng, áo the thâm, già y tây há mồm, chà ng giai quê bắt đầu cuộc hà nh trình khám phá Hà Nội. Học mấy năm kiến trúc, ở ký túc xá phố Trà ng Tiửn, rồi chuyển sang khu Bobillot (Trường Y dược phố Lê Thánh Tông bây giử), ông ra hà nh nghử và sống ở Hà Nội cho đến ngà y đi kháng chiến tháng 12-1946. Phải chăng là mười mấy năm trời, Trường Mử¹ thuật Đông Dương với những căn bản kiến thức của văn hóa phương Tây và đời sống của một Hà Nội thuộc địa đã ảnh hưởng, thấm dần và o chà ng thư sinh tỉnh lẻ, để đến lúc trở thà nh một kiến trúc sư bước đầu thà nh danh và có chỗ đứng trong việc hà nh nghử thì "chà ng" đã biết cảm nhận, biết rung cảm trước vẻ đẹp cổ kính, thiên nhiên hoang sơ và bước đầu nhìn ra những giá trị văn hiến của một Thủ đô lịch sử.
Do hoà n cảnh lịch sử của một đất nước liên tục trải qua hai cuộc chiến tranh từ khi già nh độc lập, nhìn chung các kiến trúc sư thế hệ Trường Mử¹ thuật Đông Dương để lại những công trình chủ yếu ở thời kử³ trước kháng chiến và một số trong giai đoạn sau khi hòa bình lập lại ở miửn Bắc.
Ngoà i mấy giải thưởng kiến trúc thời Pháp được nhiửu người biết đến như công trình "Đông Dương học xá", Trung tâm TDTT Cần Thơ, chùa Quán Sứ, số công trình thiết kế trước cách mạng của Tạ Mử¹ Duật chỉ còn lại ít ửi: dãy nhà ở phố Nguyễn Đình Chiểu bây giử với phong cách có hơi hướng "Đông Dương", và i căn biệt thự ở Hà ng Chuối, Nguyễn Du và công trình tham gia cùng kiến trúc sư Pháp Cerutti - tòa Bưu điện quốc tế góc Đinh Tiên Hoà ng và Đinh Lễ bên hồ Gươm, biệt thự góc đường Hùng Vương gần Quảng trường Ba Đình. Trong chiến tranh chống Mử¹, việc xây dựng không nhiửu, lại vử là m quy hoạch Hà Nội nên những thiết kế kiến trúc được xây dựng ở Hà Nội của ông chỉ có một số, như Trường Thương nghiệp, nhà ở tập thể Bộ Nội thương... Tuy vậy, những gì còn lại cũng đã in những dấu ấn vử một thế hệ nghử nghiệp.
Với niửm đam mê nghử nghiệp, tình yêu và sự nhạy cảm văn hóa, Tạ Mử¹ Duật không dừng lại ở thiết kế kiến trúc. Đầy năng lượng, sự quan tâm, ông cứ phải hoạt động và thể hiện mình qua nhiửu hình thức khác nhau. Viết báo là một thôi thúc tự thân. Trong công việc đó, Tạ Mử¹ Duật như muốn nói hết những điửu gan ruột nhất vử những tư tưởng, quan niệm và các cảm nghĩ khác nhau theo từng giai đoạn của nhận thức, mà trong đó không khửi có lúc thể hiện tính "lãng mạn chủ quan", hay ảnh hưởng của sự định hướng theo tinh thần "nghị quyết" một cách thà nh thật. Bản chất của kiến trúc suy cho cùng vẫn là vấn đử của văn hóa và xã hội học. Kiến trúc sư thực thụ không phải là người "vẽ kiểu nhà ", mà là người tổ chức, đưa ra một mô hình sống trong không gian cụ thể, trên cơ sở nửn tảng văn hóa và điửu kiện xã hội.
Bảo vệ những giá trị văn hóa, lịch sử và môi trường, phản biện xã hội và cảnh báo những nguy cơ chính là vai trò và trách nhiệm của người kiến trúc sư. Do hoà n cảnh xã hội, ông chưa là m được nhiửu công trình cụ thể, to lớn. Nhưng những quan điểm vử quy hoạch, giá trị đặc trưng của Hà Nội với những di sản kiến trúc (bao gồm cả quy hoạch), hệ thống cây xanh, mặt nước được chỉ ra trong các bà i viết và phát biểu của Tạ Mử¹ Duật tại các cuộc hội thảo chuyên môn từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước vẫn là những tư tưởng thực sự có ý nghĩa và còn mang tính thời sự.
Một góc là ng Phú Thượng (quận Tây Hồ)
Đánh giá vử di sản kiến trúc quy hoạch của Hà Nội, ngoà i những giá trị đã được nhắc đến nhiửu như các di tích lịch sử, khu 36 phố phường, khu phố Pháp cũ - nơi hằn rõ dấu ấn văn hóa phương Tây, Tạ Mử¹ Duật còn nhấn mạnh một hình thái quy hoạch kiến trúc rất đáng chú ý, theo cách ông gọi là "loại hình thứ tư: Kiến trúc nông thôn nằm trong lòng thà nh thị". Ấy là những cái là ng cũ như Ngọc Hà , Yên Phụ, Láng... trải ra "như xôi đỗ" trong lòng Thủ đô.
Cái giá trị ấy được cảm nhận thế nà y: "Một cảm giác đầu tiên khi tôi mới bước chân và o một thôn xóm, thí dụ Kim Liên, Thịnh Hà o, Phương Mai, Hoà ng Mai, Yên Phụ... đột nhiên tôi cảm thấy như mình quên cái náo động nhộn nhạo của đường phố. Khóm tre soi bóng nước, con đường uốn lượn quanh co, ngôi nhà êm ả giữa vườn cây, cái đa dạng trong mỗi cơ ngơi thể hiện cá tính của mỗi người... tất cả tuy chưa phải đã hoà n mử¹ như một thảo cầm viên, song toà n cảnh quan tiết tửa lên một không khí nhẹ nhà ng, thanh thản. Cảm giác nà y đối với du khách nước ngoà i có lẽ cà ng sâu lắng hơn.
Ở đây, người ta nhìn thấy những gì phản ánh lên một di sản, một truyửn thống, một phong thái dân tộc trong một không gian đô thị hiện đại hóa. Đặc biệt, trong những ngà y lễ, tết, không khí cà ng thêm đậm đà bản sắc". Quý báu "loại hình thứ tư", ông đặt vấn đử "có cần phá dỡ đi hà ng loạt để xây dựng lên những khu nhà ở kiểu Kim Liên, Giảng Võ" hoà n toà n khác biệt. Nơi ở đấy là những là ng nghử truyửn thống, một đời sống có sắc thái và một môi trường yên ổn vì nếp sống và môi trường thiên nhiên.
Từ ngà y đó ông đã đử nghị đến lúc nà o đó đừng vì một yêu cầu "quy hoạch chung" nà o đó mà phải có cuộc di chuyển "đại quy mô" và thiếu thực tiễn. "Xét cả trên mấy phương diện, kinh tế đô thị, đời sống xã hội, cân bằng sinh thái, thẩm mử¹ môi trường, nhiửu thôn xóm vẫn có thể tồn tại, duy trì cải tạo và phát triển". Việc giữ gìn bản sắc và cân bằng sinh thái trong quy hoạch đô thị bây giử được nói đến nhiửu khi mà những yếu tố là m nên nó đang bị hủy hoại.
Từ mấy chục năm trước, một cấu trúc thật lý tưởng cho một khu dân cư trong lòng Hà Nội với sự hòa nhập của khu nhà ở mới với "chất nông thôn" cổ truyửn, nơi vẫn duy trì vai trò của nửn sản xuất tiểu thủ công nghiệp với nghử truyửn thống, bám rễ từ "chiửu sâu lịch sử", một cấu trúc kiểu nơi ở - việc là m không xa nhau, vừa có ý nghĩa kinh tế - xã hội và văn hóa, quả là một tư tưởng đầy nhân văn đã được gợi ý. Nhưng trong hoà n cảnh hiện nay, trước các sức ép của áp lực kinh tế mang tính lợi nhuận thì những tư tưởng kia chỉ là những ý tưởng lãng mạn đầy không tưởng. Hà Nội với vẻ đẹp của văn hiến nghìn năm đã quyến rũ hà ng triệu trái tim và cuốn hút bao nhiêu hồn người. à‚m nhạc, thơ ca, hội họa và nhiếp ảnh có ưu thế hơn hẳn để mà ca ngợi vẻ đẹp ấy. Tác giả các loại hình trên có thể chủ động, độc lập sáng tạo tác phẩm của mình, "tha hồ" lưu lại dấu ấn riêng. Còn đối với người là m kiến trúc, họ cũng có cùng những cảm nhận, nhưng nhiửu khi đau xót hơn vì sự bất lực.
Có một phong cách Hà Nội trong tranh "Phố Phái" thật sự hiện hữu, những vần thơ, giai điệu mượt mà hay bức ảnh độc đáo vử hồ Gươm của Đỗ Huân, nhưng hồ Gươm với kiến trúc lại rất hay biến thà nh những "vấn đử", mà đa phần là nỗi bức xúc đầy ẩn ức.