Phố Lương Ngọc Quyến dài 324m, rộng 6m.
Đây nguyên là đất thôn Ưu Nhất và thôn Ngư Võng, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương cũ. Nhà số 10 phố này là đình của giáp Hượng Tượng xưa nhưng mặt chính quay ra phố Mã Mây, là số nhà 64 (xem mục Mã Mây).
Thời Pháp thuộc, đây là hai phố khác nhau: phố Ga-lê (rue Galet) và phố Nguyễn Khuyến. Đoạn đầu phố đến phố Tạ Hiện: phố Ga-lê có từ trước năm 1928. Đến năm 1928 được đổi thành phố Nguyễn Khuyến. Năm 1945 đổi thành phố Lương Ngọc Quyến. Năm 1949 sáp nhập thêm phố Galet cũ (tên Galet được đặt đi đặt lại cho nhiều phố) vào phố Lượng Ngọc Quyến. Những lần đổi tên sau vẫn giữ nguyên tên này.
Nay thuộc phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm.
Tên hiện nay được đặt từ sau cách mạng.
Lương Ngọc Quyến (1885 - 1917) hiệu Lập Nham, là con trai cụ cử Lương Văn Can. Ông cùng em là Lương Ngọc Nhiễm là những thanh niên đầu tiên hưởng ứng phong trào Đông du của Phan Bội Châu, đã sang Nhật vào năm 1905. Ở đây ông theo học một trường quân sự. Năm 1911 ông về Trung Quốc cùng với Phan Bội Châu lo tổ chức Việt Nam Quang phục hội. Nhưng cuối năm 1914, ông bị cảnh sát Anh bắt ở Hương Cảng rồi chuyển sang cho Pháp, giải về Hà Nội vào tháng 2/1915. Pháp đã bắt ông chịu án khổ sai chung thân và đem giam tại nhà lao tỉnh Thái Nguyên. Ở đây ông đã liên lạc được với một hạ sĩ quan có tinh thần yêu nước là Trịnh Văn Cấn tức Đội Cấn. Họ bí mật bàn kế hoạch khởi nghĩa... Đêm ngày 30/8/1917 cuộc khởi nghĩa của binh lính ở thị xã Thái Nguyên bùng nổ. Nghĩa quân làm chủ thị xã trong 6 ngày. Sau đó, trước sự phản kích của Pháp, nghĩa quân phải rút ra ngoài. Đơn vị do Lương Ngọc Quyến chỉ huy bị tổn thất nặng. Chính ông đã hy sinh do trúng đạn đại bác của giặc. Đó là ngày 05/9/1917 (có thuyết kể rằng ông bị liệt chân nên đã khảng khái tự sát đẻ khỏi bận cho nghĩa quân đang trên đường phân tán). Lúc đó ông mới 28 tuổi.