Nay thuộc phường Điện Biên, quận Ba Đình.
Cao Bá Quát (1808-1855) tự là Chu Thần, quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình ra ở tại Thăng Long, ban đầu gia đình ông ở khu vực phố Đình Ngang, sau chuyển đến mạn gần hồ Trúc Bạch. Năm 1831, ông đỗ cử nhân thứ hai nhưng triều đình khi duyệt lại đánh tụt xuống cuối bảng. sau đó ông có đi thi Hội vài khóa nhưng đều hỏng. Năm 1840, ông làm một chức quan nhỏ ở bộ Lễ. Sau một số lần thắng giáng, năm 1851 ông giữ chức Giáo thụ ở phủ Quốc Oai, Hà Nội. Tới cuối năm 1854, ông cùng Lê Duy Cự khởi nghĩa ở Mỹ Lương (vùng Mỹ Đức, Chương Mỹ, Hà Nội). Phong trào lan rộng ra các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên nhưng bị triều đình trấn áp. Tháng 1/1855, Cao Bá Quát bị trúng đạn hy sinh tại làng Yên Sơn, thuộc huyện Quốc Oai, Hà Nội. Phong trào từ đó tan rã.
Cao Bá Quát là nhà văn, nhà thơ xuất sắc. Thơ văn của ông đã lên án xã hội đương thời, mô tả cảnh sống cơ cực của quần chúng và bày tỏ mối quan tâm đặc biệt tới vận mệnh của đất nước. Ông để lại hơn 1.300 bài thơ và được suy tôn là Thánh Quát với ý nghĩa văn chương và phẩm cách của ông hơn hẳn người thường.