Nguyên đây là phần đất của nhiều làng cũ, theo thứ tự Bắc – Nam là các làng Vũ Thạch, Phúc Lâm, Phục Cổ, Hồi Mỹ, Thể Giao và Long Hồ. Tất cả thuôc tổng Tả Nghiêm (sau đổi là tổng Kim Liên), huyện Thọ Xương cũ. Chỉ có thôn Thể Giao là thuộc về tổng Tiền Nghiêm, sau đổi ra là tổng Vĩnh Xương cùng huyện. Phố Bà Triệu còn một số tên cũ, đoạn đầu chỗ đề Vũ Thạch có tên gọi là phố Hàng Giò, từ ngã tư Trần Hưng Đạo đến ngã năm Nguyễn Du có tên là dốc Hàng Kèn hay dốc Miếu Cây Thị.
Thời Pháp thuộc dãy phố này gồm có 2 phố khác nhau: phố Gia Long (từ Hàng Khay đến Nguyễn Du) và phố Lê Lợi (đoạn còn lại). Sau Cách mạng phố Gia Long đổi tên là Mai Hắc Đế, phố Lê Lợi có tên là phố Bà Triệu. Thời tạm chiếm chính quyền bù nhìn phục hồi lại tên phố Gia Long. Sau năm 1954 hợp nhất hai phố và lấy tên chung là phố Bà Triệu và giữ nguyên tên này.
Nay thuộc các phường Tràng Tiền, Hàng Bài quận Hoàn Kiếm, Nguyễn Du, Lê Đại Hành quận Hai Bà Trưng.
Dấu vết các làng thôn này là những đền miếu còn sót lại tới nay: đình, đền và chùa làng Vũ Thạch nay là các số nhà 13 và 13b phố này. Đình làng Hồi Mỹ nay là nhà số 9 phố Bùi Thị Xuân. Chùa Chân Tiên, số nhà 151 phố Bà Triệu là ở trên đất làng Thể Giao. Còn làng Long Hồ sau hợp với làng Hậu Phong Vân thành ra làng Vân Hồ. Chùa Vân Hồ mặt chính là ở phố Lê Đại Hành, mặt sau có cổng thông ra phố Bà Triệu mang biển số nhà 312. Đình Phúc Lâm thì trước đây ít lâu vẫn còn ở khu số nhà 62 Bà Triệu, nay thuộc vào phạm vi Công ty Dệt 10-10. Đình Phục Cổ cũng mới dỡ vào tháng 7/1967, vốn là chỗ ở số nhà 14 Nguyễn Du ngày nay.
Bà Triệu (226-248) là một nữ anh hùng dân tộc đã đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống bọn cai trị nhà Ngô vào những năm 247-248, tên thật là Triệu Thị Trinh, là em gái của Triệu Quốc Đạt.
Quê bà là vùng Ngàn Nưa, tức là khu vực giáp giới hai huyện Nông Cống, Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.
Vào năm 247, Bà Triệu đã lãnh đạo nhân dân vùng Ngàn Nưa đứng lên khởi nghĩa. Từ đây, nghĩa quân tiến đánh các huyện thuộc quận Cửu Chân. Nhưng khi nghĩa quân sang bờ bắc sông Mã, tiến tới làng Bồ Điền (nay là Phú Điền thuộc huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) thì vấp phải sự chống trả dữ dội của quân Ngô do tướng Lục Dận chỉ huy và bà đã hi sinh. Nay ở Phú Điền trên ngọn núi Tùng còn có lăng Bà và trên núi Gai còn có đền thờ bà. Các triều đại Lý – Trần nối tiếp ban sắc phong cho bà làm “Giản chính, anh liệt, hùng tài, Trinh nhất phụ nhân”.