Gần đây, cụ Nguyễn Tiến àoà n, một nhà Hán học, nguyên cán bộ quân đội vử hưu, quê xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, 78 tuổi, có cung cấp cho chúng tôi một bản văn của Thái tổ Lý Công Uẩn mà cụ sưu tầm được. àó là bản văn "Lý triửu Thái tổ Hoà ng đế ngự chế Bùi gia Thái tổ sự trạng bi văn".
Biết cụ àoà n là người có tâm huyết với lịch sử quê hương và tiửn nhân, cụ Dương Quảng Châu (1919 - 2003), thường được tôn xưng là Trạng Tì mách rằng, ở nhà cụ Lang Nhuận (Nguyễn Hữu Nhuận) có cuốn gia phả họ Bùi ở Thái Bình, có tên là "Bùi gia lịch thế sự trạng", trong đó có nhiửu tư liệu quý. Năm 1976, cụ àoà n mượn được từ cụ Nhuận cuốn gia phả nà y. Trong đó, có chép lại áng văn bia của Lý Thái Tổ ngự đử ở đửn thử Bùi Quang Dũng, một tướng tà i giúp àinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, mất ngà y 15-6-1018 ở ấp Hà m Châu quê nhà , được chính Lý Thái Tổ phong tước Trinh Quốc Công, và câu đối đánh giá công lao của ông: "Bất sự nhị quân, trung liệt cao phong Trinh Thạch động, tam thập niên quán cổ/ Lực phù nhất thống, vân lôi chính khí Hà m Châu ấp, thiên vạn tải như sinh" (Không thử hai vua, nêu cao phẩm giá trung thà nh nghĩa liệt, và o động Trinh Thạch ba mươi năm, đứng đầu từ xưa đến giử; Hết sức vì nửn thống nhất, chính khí như sấm sét mây mưa, ở ấp Hà m Châu, nghìn vạn năm sống mãi).
Năm 1994 - 1995, cụ àoà n lại tìm được trong gia đình ông Bùi Ngọc Xiển, quê xã àồng Thà nh, huyện Vũ Thư, Thái Bình, nơi có từ đường Bùi Quang Dũng, cuốn gia phả của họ Bùi, được viết và o thời Khải àịnh, chữ viết của ông Khiếu Hữu Lai là cháu Phó bảng Khiếu Hữu Sử. Trong cuốn gia phả nà y, có đóng dấu xác nhận của lý trưởng và Tuần phủ quan phòng Phạm Văn Thụ. Cuốn gia phả nà y cũng chép nguyên bà i văn bia nói trên.
Tuy tấm bia chưa tìm thấy nhưng với tính cẩn trọng khoa học từ văn bản, cụ Nguyễn Tiến àoà n và nhiửu nhà khoa học xác định chắc chắn rằng, đây chính là bản văn bia ngự chế của Vua Thái tổ Lý Công Uẩn.
àược phép của cụ Nguyễn Tiến àoà n và nhà thơ Gia Dũng, soạn giả của bộ sách "Văn chương Thái Bình mười thế kỷ", chúng tôi giới thiệu bản dịch của Tiến sĩ Mai Hồng toà n văn bà i văn bia nà y để hiểu thêm giá trị lịch sử, giá trị văn học của một tác phẩm thời khai quốc.
DửŠCH NGHШA
Bà i ngự chế bia ký vử công tích vị Thái tổ họ Bùi của Hoà ng đế Thái Tổ triửu Lý
Trẫm cho rằng công cuộc mở nửn dựng nước dù là chủ trương của bậc nhân quân, song việc dẹp loạn binh nhung phần lớn trông cậy và o sự nỗ lực của các tướng soái tà i ba. Từ xưa đến nay đửu như thế. àó là lý và cũng là thế vậy.
Tuy nhiên ở và o thời thái bình thịnh trị, bổn phận là m người bử tôi tốt thì dễ. Nhưng nếu ở và o cái thế cục bế tắc điên đảo, mà là m kẻ trung thần mới khó. Huống chi ở và o tình thế khó khăn mà tìm được trung thần lại cà ng khó. Tìm được bậc trung thần mà người đó lại biết bảo toà n sinh mệnh mình thì lại cà ng khó hơn nhiửu.
Tỷ như chuyện vị quan: àặc tiến khai quốc thiên sách thượng tướng, Minh Triết phu tử, Trinh quốc công Bùi Quang Dũng triửu àinh thuở trước.
Mỗ (1) vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng đất Việt, là nòi hổ tướng trời Nam, là khí thiêng của đất trời hun đúc, bẩm thụ tính tinh anh của núi sông. Văn tà i võ lược siêu quần, uy nghi xuất chúng. Thuở nhử nổi danh bởi đức tính khiêm cung hiếu đễ, tông tộc ai cũng cho rằng, Mỗ ắt sẽ là người phi phà m. àến tuổi trưởng thà nh, hiên ngang khảng khái ham đọc sách lạ (kử³ thư), là ng xóm biết ngay Mỗ là người có chí lớn. Ban đầu hai sứ quân Ngô Kiửu (2) từng triệu mấy lần, Mỗ đửu lấy cớ là con nhà nông, chỉ biết việc đồng áng mà không tường thế sự, kiên quyết không theo. Khắp châu quận ai cũng nể phục tiết tháo áo.
Một trang gia phả họ Bùi ở Thái Bình.
Sau vử với àinh Tiên Hoà ng đánh dẹp mười hai sứ quân. àó là duyên kử³ ngộ phượng đậu cà nh ngô, rồng mây tế ngộ, cườ¡i gió rẽ sóng khúc nà o chim ưng dương cánh mà kình ngạc mất tăm.
Oai hổ đánh đông dẹp bắc, mà cáo cà y tan tác dấu chân. Thiên hạ đửu ngợi ca là bậc anh hùng hà o kiệt. Khi àinh Tiên Hoà ng thống nhất giang sơn một mối, bước lên chín bậc cửu trùng lấy Mỗ từ chức Anh Dực tướng quân sung và o àiện tiửn Chỉ huy sứ, kiêm thiêm sự; triửu nghi rực rỡ, công huân lẫy lừng. Thế rồi bọn giặc bể ở Kử³ Bố lại khởi loạn, Mỗ lại được sung chức Trấn đông tiết độ sứ. Mỗi khi Mỗ tới thì giặc biển liửn tan. Trẫm lại cho thăng lên àặc tiến Khai quốc Thiên sách Thượng tướng, tiến tước Tĩnh an hầu. Kế đó ban sách tặng phong tiên phụ của Mỗ là Khải tá hầu, tiên mẫu là Khải tá hầu phu nhân.
Chiếu Vua ban tăng thêm vẻ sáng phương nêu rõ sự sủng ái của quốc gia là rất mực vậy. àây chẳng phải bởi con có huân công oanh liệt mà cha mẹ được vẻ vang? Lại bởi vì Mỗ có công lao lớn, nên trẫm ban thái ấp lưu là m nơi ở thuộc đất Hà m Châu. àó là cái điửm hợp cát của người hiửn ở và o đất tốt, thì mệnh trời sẽ được bửn lâu mãi mãi. Há chẳng phải người lấy đất để bửn chắc móng nửn mà chính là đất lấy người để đất nổi danh? Chiến công lẫm liệt, huân danh lẫy lừng của Mỗ như vậy đã hiển hiện ra trước tai mắt mọi người ai ai cũng thấy. Kịp khi Lê àại Hà nh cướp ngôi, àinh àiửn Nguyễn Bặc mật đưa thư tới báo, Mỗ biến sắc tức tốc đử binh lên đường, tới nơi thì hai người đửu đã tử tiết. Mỗ liệu sức mình đơn độc khó bử chống chọi, bèn lui và o động Trinh Thạch tự thủ, ôm nỗi niửm cô trung, đợi thời mưu sự vử sau.
Tinh thần trung dũng quả cảm ấy của Mỗ thực đã biểu lộ cái tầm nhìn xa rộng của Mỗ vử thế gian nà y. May thay trẫm được trời rủ lòng thương mến, lấy khoan dung để thay bạo ngược, lặng lẽ thuận tình, hà nh sự chí công, vỗ vử trăm họ. Chiếu thư mời gọi ba lần mà Mỗ vẫn chưa chịu vử triửu, trẫm rất lấy là m ái hộ đức tính kiên trung ấy lại cà ng đáng khen cho khí tiết thanh cao của con người ấy. Bấy giử có giặc lại nổi loạn ở cửa biển Kử³ Bố rất ngông cuồng tà n bạo, trẫm đã ba phen khiển tướng chinh phạt mà chưa dẹp yên được. àến khi sai Nguyễn Uy đem quân đi đánh thì vẫn còn nghe câu nói từ miệng giặc: "Hễ ông Dũng đến là tự nhiên kinh". Lúc Nguyễn Uy đến, giặc chẳng mà ng để tâm, chỉ có điửu chúng cần biết viên tướng đem quân tới là ai thôi. Tướng Uy lên tiếng: Khâm sai Chinh đông àại tướng Nguyễn Uy. Giặc liửn hát câu vè:
"Uy đến chẳng đáng sợ Dũng đến tự nhiên kinh".
Trên đường dừng lại nghe trẻ chăn trâu hát câu đồng dao:"Uy mặc Uy chẳng sợ chi/ Có ông Dũng đến vậy thì mới kinh".
Trẫm lại biết thêm vử uy đức của Mỗ vốn nổi danh ở miửn duyên hải (hải quốc) vậy. Trẫm bèn sai Nguyễn Uy thảo thư đưa và o động nói rõ sự thực còn dặn thêm Uy: Hãy tìm lời dụ Mỗ. Mãi tới lúc ấy Mỗ mới chịu nghe lời trẫm vử triửu. Trẫm vội lấy lễ khách bậc thầy để tiếp đãi với bái hiệu là Minh Triết phu tử. Nhân đó Mỗ liửn tiến cử người con trai của mình là Bùi Quang Anh cho trẫm.
Trẫm lấy nguyên chức như ngà y trước mà phong tặng: Anh Dực tướng quân trấn đông Tiết độ sứ, phái đi trấn thủ miửn đất Kử³ Bố (với nhiệm vụ Tổng thống trấn thủ ba đạo) lại sai đình thần tiễn Mỗ trở lại ấp Hà m Châu. àường vử Hà m Châu ngà y ấy Mỗ cùng người con trai của mình là Bùi Quang Anh đồng hà nh. Vừa vử đến nơi thì giặc đã tự tới đầu hà ng. Thấy rõ uy đức của Mỗ đến như thế, trẫm cà ng tăng lòng hâm mộ.
Tới nay Mỗ ở tuổi thọ 97 bị đốc bệnh từ tháng trước, trẫm lệnh đình thần chăm lo thuốc thang trị liệu, viết thư ân cần thăm hửi, lại cũng không quên hửi han vử việc hậu sự. Mỗ có lời đáp rằng: "Trong câu sấm Thập Bát Tử (tức là chữ Lý) xã tắc truyửn gia thì thần thích nhất chữ "bát", lại dặn thêm: "Ngà y sau nếu triửu đình hữu sự thì trẫm có thể sai khiến sử dụng đứa cháu của Mỗ". Lời nói ấy cứ âm vang mãi bên tai trẫm; đinh ninh mãi trong tim trẫm.
Trẫm nghĩ cử chỉ ấy của Mỗ chính là một tấm gương để cho các tôi thần của trẫm nà y soi chung vậy. Tới ngà y 12 tháng 6 đình thần dâng tấu rằng: "Họ trông thấy phương đông nam có ngôi sao rơi, lặn tắt". Qua ngà y rằm bỗng có tử điệp cáo phó tới: "Khai quốc Thiên sách thượng tướng Tĩnh an hầu Minh Triết phu tử Bùi tướng công triửu àinh ngà y trước tạ tế!". Trẫm bùi ngùi than thở: Trời vừa mới thương họ Lý ta mà sao vội cướp đi một triết nhân vậy. Nhân đó trong triửu giảm bớt bữa ăn, bớt vui chơi. Trẫm lệnh cho đình thần thay trẫm lo việc tang lễ, sắm cỗ quan đồng quách ngọc; ban gấm vóc mỗi loại ba súc, và ng 50 lượng, bạc 500 lượng, cùng với điửu văn để trợ giúp lễ nghi tang tế.
Trẫm ban thêm chế sách tặng Mỗ là Trinh Quốc công; lại gia phong mử¹ tự dựa trên đức độ bình sinh của Mỗ: "Cương nghị, bất khuất, chính trực, không a tòng". Và ban tên thụy: Cương Chính tướng công. Lại truy phong cho tiên khảo (cha) của Mỗ là Khải tá công, tiên mẫu (mẹ) là Khải Tá công phu nhân. àể biểu dương tấm lòng của Mỗ và cũng là để bộc bạch tấm lòng chuộng hiửn của trẫm vậy.
à” hô ! Mỗ hiếu trung vẹn cả hai đường. Tiết nghĩa song toà n hai chữ.
àó quả là điửu hiếm thấy, hiếm nghe bậc nhất từ cổ chí kim ở thế gian nà y. Trẫm mong cho tính danh của Mỗ sẽ bất tử; hơn nữa nó là tấm gương cho các thế hệ bử tôi của trẫm mãi vử sau soi và o. Cầu mong trời đất hãy chứng giám cho đức tính trung liệt của Mỗ, giúp cho con cháu nhà họ Bùi nà y đời đời luôn có anh tà i xuất hiện, để giúp đỡ Vua nước Nam ta, bảo vệ giữ gìn nước Nam ta, cứu giúp dân chúng nước Nam ta.
àó chính là điửu trông đợi sâu xa nhất của quả nhân vậy.
Ngà y 12 tháng 8 nhuận năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) Ngự chế thái sư Khuông Việt (thần) Lý Pháp Chân vâng mệnh chép, thợ khắc đá Phạm Công Thắng vâng mệnh khắc bia.