Phát hiện một áng văn đặc sắc của Thái tổ Lý Công Uẩn

Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 14:44, 03/03/2009

Xưa nay, lịch sử­ đã viết nhiửu vử công tích Lý Công Uẩn, vị Vua sáng lập ra triửu đại nhà  Lý huy hoà ng và  quyết định dời đô từ Hoa Lư vử Thăng Long cùng Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) nổi tiếng. Vị Vua anh minh nà y còn có những tác phẩm nà o khác?

Gần đây, cụ Nguyễn Tiến àoà n, một nhà  Hán học, nguyên cán bộ quân đội vử hưu, quê xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, 78 tuổi, có cung cấp cho chúng tôi một bản văn của Thái tổ Lý Công Uẩn mà  cụ sưu tầm được. àó là  bản văn "Lý triửu Thái tổ Hoà ng đế ngự chế Bùi gia Thái tổ sự trạng bi văn".

Biết cụ àoà n là  người có tâm huyết với lịch sử­ quê hương và  tiửn nhân, cụ Dương Quảng Châu (1919 - 2003), thường được tôn xưng là  Trạng Tì mách rằng, ở nhà  cụ Lang Nhuận (Nguyễn Hữu Nhuận) có cuốn gia phả họ Bùi ở Thái Bình, có tên là  "Bùi gia lịch thế sự trạng", trong đó có nhiửu tư liệu quý. Năm 1976, cụ àoà n mượn được từ cụ Nhuận cuốn gia phả nà y. Trong đó, có chép lại áng văn bia của Lý Thái Tổ ngự đử ở đửn thử Bùi Quang Dũng, một tướng tà i giúp àinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, mất ngà y 15-6-1018 ở ấp Hà m Châu quê nhà , được chính Lý Thái Tổ phong tước Trinh Quốc Công, và  câu đối đánh giá công lao của ông: "Bất sự nhị quân, trung liệt cao phong Trinh Thạch động, tam thập niên quán cổ/ Lực phù nhất thống, vân lôi chính khí Hà m Châu ấp, thiên vạn tải như sinh" (Không thử hai vua, nêu cao phẩm giá trung thà nh nghĩa liệt, và o động Trinh Thạch ba mươi năm, đứng đầu từ xưa đến giử; Hết sức vì nửn thống nhất, chính khí như sấm sét mây mưa, ở ấp Hà m Châu, nghìn vạn năm sống mãi).

Năm 1994 - 1995, cụ àoà n lại tìm được trong gia đình ông Bùi Ngọc Xiển, quê xã àồng Thà nh, huyện Vũ Thư, Thái Bình, nơi có từ đường Bùi Quang Dũng, cuốn gia phả của họ Bùi, được viết và o thời Khải àịnh, chữ viết của ông Khiếu Hữu Lai là  cháu Phó bảng Khiếu Hữu Sử­. Trong cuốn gia phả nà y, có đóng dấu xác nhận của lý trưởng và  Tuần phủ quan phòng Phạm Văn Thụ. Cuốn gia phả nà y cũng chép nguyên bà i văn bia nói trên.

Tuy tấm bia chưa tìm thấy nhưng với tính cẩn trọng khoa học từ văn bản, cụ Nguyễn Tiến àoà n và  nhiửu nhà  khoa học xác định chắc chắn rằng, đây chính là  bản văn bia ngự chế của Vua Thái tổ Lý Công Uẩn.

àược phép của cụ Nguyễn Tiến àoà n và  nhà  thơ Gia Dũng, soạn giả của bộ sách "Văn chương Thái Bình mười thế kỷ", chúng tôi giới thiệu bản dịch của Tiến sĩ Mai Hồng toà n văn bà i văn bia nà y để hiểu thêm giá trị lịch sử­, giá trị văn học của một tác phẩm thời khai quốc.

DửŠCH NGHШA

Bà i ngự chế bia ký vử công tích vị Thái tổ  họ Bùi của Hoà ng đế Thái Tổ triửu Lý

Trẫm cho rằng công cuộc mở nửn dựng nước dù là  chủ trương của bậc nhân quân, song việc dẹp loạn binh nhung phần lớn trông cậy và o sự nỗ lực của các tướng soái tà i ba. Từ xưa đến nay đửu như thế. àó là  lý và  cũng là  thế vậy.

Tuy nhiên ở và o thời thái bình thịnh trị, bổn phận là m người bử tôi tốt thì dễ. Nhưng nếu ở và o cái thế cục bế tắc điên đảo, mà  là m kẻ trung thần mới khó. Huống chi ở và o tình thế khó khăn mà  tìm được trung thần lại cà ng khó. Tìm được bậc trung thần mà  người đó lại biết bảo toà n sinh mệnh mình thì lại cà ng khó hơn nhiửu.

Tỷ như chuyện vị quan: àặc tiến khai quốc thiên sách thượng tướng, Minh Triết phu tử­, Trinh quốc công Bùi Quang Dũng triửu àinh thuở trước.

Mỗ (1) vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng đất Việt, là  nòi hổ tướng trời Nam, là  khí thiêng của đất trời hun đúc, bẩm thụ tính tinh anh của núi sông. Văn tà i võ lược siêu quần, uy nghi xuất chúng. Thuở nhử nổi danh bởi đức tính khiêm cung hiếu đễ, tông tộc ai cũng cho rằng, Mỗ ắt sẽ là  người phi phà m. àến tuổi trưởng thà nh, hiên ngang khảng khái ham đọc sách lạ (kử³ thư), là ng xóm biết ngay Mỗ là  người có chí lớn. Ban đầu hai sứ quân Ngô Kiửu (2) từng triệu mấy lần, Mỗ đửu lấy cớ là  con nhà  nông, chỉ biết việc đồng áng mà  không tường thế sự, kiên quyết không theo. Khắp châu quận ai cũng nể phục tiết tháo áo.

Phát hiện một áng văn đặc sắc của Thái tổ Lý Công Uẩn

Một trang gia phả họ Bùi ở Thái Bình.

Sau vử với àinh Tiên Hoà ng đánh dẹp mười hai sứ quân. àó là  duyên kử³ ngộ phượng đậu cà nh ngô, rồng mây tế ngộ, cườ¡i gió rẽ sóng khúc nà o chim ưng dương cánh mà  kình ngạc mất tăm.

Oai hổ đánh đông dẹp bắc, mà  cáo cà y tan tác dấu chân. Thiên hạ đửu ngợi ca là  bậc anh hùng hà o kiệt. Khi àinh Tiên Hoà ng thống nhất giang sơn một mối, bước lên chín bậc cử­u trùng lấy Mỗ từ chức Anh Dực tướng quân sung và o àiện tiửn Chỉ huy sứ, kiêm thiêm sự; triửu nghi rực rỡ, công huân lẫy lừng. Thế rồi bọn giặc bể ở Kử³ Bố lại khởi loạn, Mỗ lại được sung chức Trấn đông tiết độ sứ. Mỗi khi Mỗ tới thì giặc biển liửn tan. Trẫm lại cho thăng lên àặc tiến Khai quốc Thiên sách Thượng tướng, tiến tước Tĩnh an hầu. Kế đó ban sách tặng phong tiên phụ của Mỗ là  Khải tá hầu, tiên mẫu là  Khải tá hầu phu nhân.

Chiếu Vua ban tăng thêm vẻ sáng phương nêu rõ sự sủng ái của quốc gia là  rất mực vậy. àây chẳng phải bởi con có huân công oanh liệt mà  cha mẹ được vẻ vang? Lại bởi vì Mỗ có công lao lớn, nên trẫm ban thái ấp lưu là m nơi ở thuộc đất Hà m Châu. àó là  cái điửm hợp cát của người hiửn ở và o đất tốt, thì mệnh trời sẽ được bửn lâu mãi mãi. Há chẳng phải người lấy đất để bửn chắc móng nửn mà  chính là  đất lấy người để đất nổi danh? Chiến công lẫm liệt, huân danh lẫy lừng của Mỗ như vậy đã hiển hiện ra trước tai mắt mọi người ai ai cũng thấy. Kịp khi Lê àại Hà nh cướp ngôi, àinh àiửn Nguyễn Bặc mật đưa thư tới báo, Mỗ biến sắc tức tốc đử binh lên đường, tới nơi thì hai người đửu đã tử­ tiết. Mỗ liệu sức mình đơn độc khó bử chống chọi, bèn lui và o động Trinh Thạch tự thủ, ôm nỗi niửm cô trung, đợi thời mưu sự vử sau.

Tinh thần trung dũng quả cảm ấy của Mỗ thực đã biểu lộ cái tầm nhìn xa rộng của Mỗ vử thế gian nà y. May thay trẫm được trời rủ lòng thương mến, lấy khoan dung để thay bạo ngược, lặng lẽ thuận tình, hà nh sự chí công, vỗ vử trăm họ. Chiếu thư mời gọi ba lần mà  Mỗ vẫn chưa chịu vử triửu, trẫm rất lấy là m ái hộ đức tính kiên trung ấy lại cà ng đáng khen cho khí tiết thanh cao của con người ấy. Bấy giử có giặc lại nổi loạn ở cử­a biển Kử³ Bố rất ngông cuồng tà n bạo, trẫm đã ba phen khiển tướng chinh phạt mà  chưa dẹp yên được. àến khi sai Nguyễn Uy đem quân đi đánh thì vẫn còn nghe câu nói từ miệng giặc: "Hễ ông Dũng đến là  tự nhiên kinh". Lúc Nguyễn Uy đến, giặc chẳng mà ng để tâm, chỉ có điửu chúng cần biết viên tướng đem quân tới là  ai thôi. Tướng Uy lên tiếng: Khâm sai Chinh đông àại tướng Nguyễn Uy. Giặc liửn hát câu vè:

"Uy đến chẳng đáng sợ Dũng đến tự nhiên kinh".

Trên đường dừng lại nghe trẻ chăn trâu hát câu đồng dao:"Uy mặc Uy chẳng sợ chi/ Có ông Dũng đến vậy thì mới kinh".

Trẫm lại biết thêm vử uy đức của Mỗ vốn nổi danh ở miửn duyên hải (hải quốc) vậy. Trẫm bèn sai Nguyễn Uy thảo thư đưa và o động nói rõ sự thực còn dặn thêm Uy: Hãy tìm lời dụ Mỗ. Mãi tới lúc ấy Mỗ mới chịu nghe lời trẫm vử triửu. Trẫm vội lấy lễ khách bậc thầy để tiếp đãi với bái hiệu là  Minh Triết phu tử­. Nhân đó Mỗ liửn tiến cử­ người con trai của mình là  Bùi Quang Anh cho trẫm.

Trẫm lấy nguyên chức như ngà y trước mà  phong tặng: Anh Dực tướng quân trấn đông Tiết độ sứ, phái đi trấn thủ miửn đất Kử³ Bố (với nhiệm vụ Tổng thống trấn thủ ba đạo) lại sai đình thần tiễn Mỗ trở lại ấp Hà m Châu. àường vử Hà m Châu ngà y ấy Mỗ cùng người con trai của mình là  Bùi Quang Anh đồng hà nh. Vừa vử đến nơi thì giặc đã tự tới đầu hà ng. Thấy rõ uy đức của Mỗ đến như thế, trẫm cà ng tăng lòng hâm mộ.

Tới nay Mỗ ở tuổi thọ 97 bị đốc bệnh từ tháng trước, trẫm lệnh đình thần chăm lo thuốc thang trị liệu, viết thư ân cần thăm hửi, lại cũng không quên hửi han vử việc hậu sự. Mỗ có lời đáp rằng: "Trong câu sấm Thập Bát Tử­ (tức là  chữ Lý) xã tắc truyửn gia thì thần thích nhất chữ "bát", lại dặn thêm: "Ngà y sau nếu triửu đình hữu sự thì trẫm có thể sai khiến sử­ dụng đứa cháu của Mỗ". Lời nói ấy cứ âm vang mãi bên tai trẫm; đinh ninh mãi trong tim trẫm.

Trẫm nghĩ cử­ chỉ ấy của Mỗ chính là  một tấm gương để cho các tôi thần của trẫm nà y soi chung vậy. Tới ngà y 12 tháng 6 đình thần dâng tấu rằng: "Họ trông thấy phương đông nam có ngôi sao rơi, lặn tắt". Qua ngà y rằm bỗng có tử điệp cáo phó tới: "Khai quốc Thiên sách thượng tướng Tĩnh an hầu Minh Triết phu tử­ Bùi  tướng công triửu àinh ngà y trước tạ tế!". Trẫm bùi ngùi than thở: Trời vừa mới thương họ Lý ta mà  sao vội cướp đi một triết nhân vậy. Nhân đó trong triửu giảm bớt bữa ăn, bớt vui chơi. Trẫm lệnh cho đình thần thay trẫm lo việc tang lễ, sắm cỗ quan đồng quách ngọc; ban gấm vóc mỗi loại ba súc, và ng 50 lượng, bạc 500 lượng, cùng với điửu văn để trợ giúp lễ nghi tang tế.

Trẫm ban thêm chế sách tặng Mỗ là  Trinh Quốc công; lại gia phong mử¹ tự dựa trên đức độ bình sinh của Mỗ: "Cương nghị, bất khuất, chính trực, không a tòng". Và  ban tên thụy: Cương Chính tướng công. Lại truy phong cho tiên khảo (cha) của Mỗ là  Khải tá công, tiên mẫu (mẹ) là  Khải Tá công phu nhân. àể biểu dương tấm lòng của Mỗ và  cũng là  để bộc bạch tấm lòng chuộng hiửn của trẫm vậy.

à” hô ! Mỗ hiếu trung vẹn cả hai đường. Tiết nghĩa song toà n hai chữ.

àó quả là  điửu hiếm thấy, hiếm nghe bậc nhất từ cổ chí kim ở thế gian nà y. Trẫm mong cho tính danh của Mỗ sẽ bất tử­; hơn nữa nó là  tấm gương cho các thế hệ bử tôi của trẫm mãi vử sau soi và o. Cầu mong trời đất hãy chứng giám cho đức tính trung liệt của Mỗ, giúp cho con cháu nhà  họ Bùi nà y đời đời luôn có anh tà i xuất hiện, để giúp đỡ Vua nước Nam ta, bảo vệ giữ gìn nước Nam ta, cứu giúp dân chúng nước Nam ta.

àó chính là  điửu trông đợi sâu xa nhất của quả nhân vậy.

Ngà y 12 tháng 8 nhuận năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) Ngự chế thái sư Khuông Việt (thần) Lý Pháp Chân vâng mệnh chép, thợ khắc đá Phạm Công Thắng vâng mệnh khắc bia.

Nhân dân