Là ng Nghè, Nghĩa Đô, Hà Nội ngay cạnh cửa Tây Bắc kinh thà nh Thăng Long từ thời Lý đã chuyên sản xuất một loại giấy quý đó là giấy nghè. Loại giấy nà y trên nửn có nổi lên mử mử hình rồng phun mây, dà nh riêng cho vua viết các tử sắc nên còn gọi là giấy sắc hay giấy long ám, đây là loại giấy cao cấp chỉ có ở kinh đô: Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô/ Quanh năm là m giấy cho vua được nhử.
Từ Nghĩa Đô xuôi dòng sông Tô khoảng 2km là đến Cầu Giấy (theo tà i liệu ghi là cầu Tây Dương vì cầu nằm ở cửa ô quan trọng phía Tây kinh thà nh), nhưng sở dĩ được gọi là Cầu Giấy vì cầu bắc trên địa phận của một là ng chuyên là m giấy và bên cạnh cầu có chợ bán giấy. Theo cuốn Việt sử lược thì là ng Yên Hòa ( là ng Cót ) từ thời Trần đã nổi tiếng với nghử rồi.
Nhưng phường là m giấy nức tiếng xa gần phải kể đến là ng Yên Thái. Nhịp chà y Yên Thái đã đi và o thơ ca, tạo thà nh nét đẹp riêng của Thăng Long ngà n năm văn vật: Gió đưa cà nh trúc la đà / Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tửa ngà n sương/ Nhịp chà y Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Công việc là m giấy chủ yếu dà nh cho thanh niên nam nữ khửe mạnh, nguyên liệu chính để sản xuất giấy là vử dó, vử dương, rơm, rong biển... Thông thường, vử dó được ngâm nước một ngà y đêm, sau đó ngâm với nước vôi pha loãng hai ngà y hai đêm rồi đem nấu cách thủy trong bốn ngà y bốn đêm.
Việc là m giấy không hử thơ mộng như trong thơ văn mô tả, khi vử dó đã nấu chín được đem ra ngâm nước vôi loãng một lần nữa rồi bóc lớp ngoà i trước khi đem và o giã thà nh bột trắng muốt và mịn. Sau đó mới có thể quấy đửu với một thứ keo là m bằng nhựa cây mò và nước giếng Yên Thái thì mới có thể đem tráng trên liửm seo thì mới được những trang giấy trắng.
Công việc nà y xem chừng có vẻ nhẹ nhà ng nhưng đòi hửi người là m phải có đức kiên trì, cần mẫn với đôi bà n tay khéo léo vì chỉ cần sao nhãng một chút thôi thì bột dó sẽ bị đọng lại và trang giấy sẽ không đửu.
Bên cạnh vử dó, vử dương, bột mía, rơm... người Việt còn biết lấy vử cây thương lục (tục gọi là cây niết ) để là m giấy. Loại cây nà y hiếm nên giá rất đắt, mà u trắng bạch, bửn dai đã là m ra được loại giấy tốt nhất.
Vì giấy là sản phẩm quý nên ngay từ các triửu đại phong kiến việc tổ chức và sản xuất giấy đửu được lưu tâm. Năm 1439, Lê Thái Tông ra quy định một đơn vị giấy là 100 tử để tiện cho việc tính toán và sử dụng. Năm 1505 Lê Túc Tông lại quy định cụ thể hơn vử cách sử dụng giấy: Việc lớn thì dùng giấy đại phương, việc nhử dùng giấy tiểu phương...
Và o thời vua Lê chúa Trịnh việc sản xuất và sử dụng giấy còn chặt chẽ hơn. Sách Đại Việt sử ký toà n thư có ghi: Trịnh Tùng hạ lệnh cho huyện Quảng Đức mở cục là m giấy, là m thứ giấy đại phương kiểu mới để nộp quan, không được bán riêng...
Các triửu đại đửu đặt ra lệ thuế rất nặng nử đối với những người thợ là m giấy, đã chịu bao nỗi vất vả nặng nhọc lại bị bòn rút đến cùng kiệt nhưng họ vẫn say sưa lao động và sáng tạo, vẫn vui tươi và hi vọng: Người ta buôn vạn bán ngà n/ Em đây là m giấy cơ hà n vẫn tươi/ Dám xin nho sĩ chớ cười/ Vì em là m giấy cho người đử thơ.
Hiện nay phần lớn các loại giấy được là m theo kử¹ thuật hiện đại, nhưng trong thời kử³ kháng chiến giấy thủ công có đóng góp vai trò rất quan trọng là m cầu nối thông tin giữa tiửn tuyến lớn và hậu phương. Bà n tay những người thợ giấy tà i hoa đã góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục, thông tin, văn hóa... của cả nước đồng thời giữ gìn và phát huy truyửn thống dân tộc qua các thời kử³.