Nửn Nho học được truyửn bá và o nước ta cũng manh nha từ thời Bắc thuộc, tuy nhiên việc giáo dục chủ yếu tập trung để đà o tạo nguồn nhân lực, là m tay sai cho bọn thống trị phương Bắc.
Đến thời kử³ độc lập tự chủ của dân tộc ta, với vai trò là m Quốc giáo, những ngôi chùa Phật giáo trở thà nh nơi duy nhất dạy chữ và đà o tạo ra những bậc thiửn sư người Việt có học thức uyên bác để giúp các triửu đại phong kiến Ngô, Đinh, Tiửn Lê trong việc nội trị ngoại giao. Tuy nhiên, khi vua Lý Thái Tổ bắt đầu dời đô từ Hoa Lư vử Thăng Long đã thiết lập một hệ thống chính quyửn hoà n chỉnh từ trung ương đến địa phương. Chính điửu nà y đòi hửi phải có nguồn nhân tà i phục vụ cho quốc gia và nhà Lý bắt đầu chú trọng đến những giáo lý của Nho giáo phù hợp với tư tưởng trung quân, ái quốc mà nhà Lý đang muốn thiết lập sau khi già nh quyửn độc lập, tự chủ sau gần nghìn năm Bắc thuộc.
Song song với Phật giáo, nửn Nho giáo chủ yếu phục vụ cho đà o tà o nhân tà i đã được các vị vua nhà Lý chú trọng. Người có công đầu tiên khi đưa Nho giáo và o đời sống của người dân Việt chính là vị vua Lý Thánh Tông với công xây dựng Văn Miếu là nơi thử Khổng Tử - người thầy sáng lập ra nửn Nho học. Ngoà i Văn Miếu ở kinh thà nh Thăng Long, ở các địa phương cũng có nhiửu nơi lập ra để thử Khổng Tử được gọi là Văn chỉ.
Nhận thấy sự cần thiết có một đội ngũ tri thức giúp sức cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, vua Lý Thánh Tông (1023 - 1072) sau khi lên ngôi lúc 31 tuổi đã cho xây dựng Văn Miếu và o năm 1070, là m nơi thử các thánh hiửn đạo Nho. à”ng cũng là người mở khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên để tuyển chọn nhân tà i.
Hà ng bia Tiến sĩ
Vua Lý Nhân Tông (1066 - 1128) tức Lý Cà n Đức, con trưởng của Vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi ử¶ Lan, lên ngôi lúc mới 6 tuổi đã kế nghiệp sự nghiệp đà o tạo nhân tà i quốc gia của vua cha. Ngay từ nhử ông đã được chú trọng dạy dỗ vử cả tri thức văn chương lẫn đạo là m vua. à”ng là vị vua chú trọng vử văn hóa, giáo dục, mở các cuộc thi kén chọn nhân tà i, và đặc biệt ưu đãi, trọng vọng các bậc thiửn sư. Năm Ất Mão (1075) vua cho tổ chức một khoa thi Tam trường, là khoa thi chọn người giửi đầu tiên ở nước ta và tiến sĩ Nguyễn Văn Thịnh đỗ đầu nhưng không được gọi là Trạng Nguyên vì phải đến năm 1247 vua Trần Thái Tông mới đặt ra học vị Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Tiếp liửn năm sau (1076), vua cho lập Quốc Tử Giám và bổ nhiệm những người khoa bảng văn học và o dạy. Ban đầu nơi đây là nơi dạy học cho các hoà ng tử, công chúa, con quan lại và sau đó mở rộng thu nhận cả những học trò giửi trong thiên hạ.
Năm 1236 trường được mở rộng và đổi tên là Quốc Tử Viện, sau là Quốc Học Viện. Diện tích của Quốc Tử Giám rộng hơn Văn Miếu nhiửu, đủ cho khoảng 300 nho sinh nội trú. Có giảng đường dùng để bình văn, có chỗ ở và phòng họp của nho sinh và nhiửu gian để in sách. Nho sinh được kén chọn rất kử¹, quê quán xa được nội trú, học ở đây được Nhà nước bao cấp. ngoà i ra còn có nhà bếp, kho tà ng chứa ván in khắc sách, công trình phụ...
Không có ghi chép rõ rà ng vử Quốc Tử Giám thời Lý “ Trần, tuy nhiên khu học nà y thời Lê đã được Lê Quý Đôn miêu tả trong "Kiến văn tiểu lục" thì : "Nhà Thái học có ba gian, có tường ngang, lợp bằng ngói đồng. Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đửu 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đửu ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người". Toà n bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đửu là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Trà ng.
Đứng đầu Quốc Tử Giám là Tế Tửu (hiệu trưởng) và Tư Nghiệp (hiệu phó), phụ trách việc giảng dạy có Giáo Thụ, Trực Giảng, Trợ Giáo và Bác Sĩ. Giám sinh (học trò Quốc Tử Giám) chủ yếu là những người đã đỗ thi Hương, qua một kử³ kiểm tra ở Bộ Lễ và Quốc Tử Giám để học tập và chuẩn bị cho kử³ thi Hội, thi Đình.
Trải qua các triửu đại Lý “ Trần, mặc dù Nho giáo khá được chú trọng trong đà o tạo nguồn nhân tà i nhưng phải đến triửu Lê đặc biệt thời Lê Thánh Tông thì Nho giáo mới phát triển đến cực thịnh.
Vua Lê Thánh Tông là con trai thứ tư của vua Lê Thái Tông (1442 “ 1497). à”ng ở ngôi được 37 năm và thời kử³ đất nước dưới sự cai trị của ông được coi là một trong những thời kử³ cực thịnh vử mọi mặt. Có thể nói hoà n cảnh sinh ra và lớn lên của vị vua tà i năng nước Đại Việt gắn liửn với cuộc sống của những người dân thường vùng kinh thà nh Thăng Long nên ông hiểu rõ muốn phát triển đất nước cần phải được lòng dân, phát triển vử mọi mặt. Cùng với tà i năng tri thức và sáng suốt trong cai trị, ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giử nửn giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đử cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoà i Hà n lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn. Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đà n bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đà n chủ soái.
à”ng là người có công xây dựng điện Đại Thà nh và cho lập bia Tiến sĩ tại Văn Miếu năm 1484 để biểu dương nhân tà i và khuyến khích họ dùi mà i kinh sử để lưu danh bảng và ng tại khu Nhà Thái Học. Hiện nay hai dãy bia Tiến sĩ còn lưu lại 82 tấm bia ghi danh những vị tiến sĩ từ năm 1442 đến năm 1802 sau khi vua Gia Long dời đô và lập Quốc Tử Giám tại kinh thà nh Huế.
Mô hình khu Thái học
Người không có công xây dựng khu Văn Miếu “ Quốc Tử Giám nhưng lại được thử tại đây chính là Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An (1292 - 1370) “ vị thầy của muôn đời. Chu Văn An từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra là m quan mà ở nhà mở trường dạy học, học trò của ông có nhiửu người đỗ đạt cao. Có thể nói ông là người đóng góp quan trọng trong đà o tạo ra nguồn nhân tà i để phục vụ quốc gia, một người thà y mẫu mực, là tấm gương sáng muôn đời vử tri thức và đạo đức.
Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời và o là m Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. à”ng đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia và o công việc củng cố triửu đình lúc đó đang đi dần và o con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự cà ng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiửu lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đửu là người quyửn thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Vua Trần Nghệ Tông khi lên ngôi đã mời ông ra là m quan nhưng ông khước từ. Khi ông mất, vua Trần đã dà nh cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thử ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh.
Hiện nay, trong tầng trên của khu Thái học, có gian thử với tượng của ba vị vua tà i hoa của nước ta gồm có tượng của vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và tượng Tư nghiệp (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám Chu Văn An thử tại gian Bái Đường được các nghệ nhân đúc đồng của là ng nghử Ngũ Xã nổi tiếng thực hiện tại Hà Nội. Đây là những danh nhân có công phát triển nửn giáo dục Nho học ở Việt Nam. Văn Miếu “ Quốc Tử Giám là nơi nơi đà o tạo ra nguyên khí của quốc gia và nó đã hoà n thà nh vai trò của mình trong hà ng trăm năm lịch sử.