Những người có công khai sinh Văn Miếu “ Quốc Tử­ Giám

Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 11:25, 01/06/2009

(NHN) Khu di tích Văn Miếu “ Quốc Tử­ Giám từng là  một trung tâm văn hóa “ giáo dục của kinh thà nh Thăng Long xưa. Những người đầu tiên có công xây dựng khu di tích nà y có lẽ chỉ nghĩ đến mục đích đử cao và  tôn vinh đạo Nho, đà o tạo nguồn nhân tà i cho đất nước chứ không nghĩ rằng nơi đây trở thà nh một minh chứng cho nửn văn hóa nghìn năm của Thăng Long “ Hà  Nội.

Nửn Nho học được truyửn bá và o nước ta cũng manh nha từ thời Bắc thuộc, tuy nhiên việc giáo dục chủ yếu tập trung để đà o tạo nguồn nhân lực, là m tay sai cho bọn thống trị phương Bắc.

Аến thời kử³ độc lập tự chủ của dân tộc ta, với vai trò là m Quốc giáo, những ngôi chùa Phật giáo trở thà nh nơi duy nhất dạy chữ và  đà o tạo ra những bậc thiửn sư người Việt có học thức uyên bác để giúp các triửu đại phong kiến Ngô, Аinh, Tiửn Lê trong việc nội trị ngoại giao. Tuy nhiên, khi vua Lý Thái Tổ bắt đầu dời đô từ Hoa Lư vử Thăng Long đã thiết lập một hệ thống chính quyửn hoà n chỉnh từ trung ương đến địa phương. Chính điửu nà y đòi hửi phải có nguồn nhân tà i phục vụ cho quốc gia và  nhà  Lý bắt đầu chú trọng đến những giáo lý của Nho giáo phù hợp với tư tưởng trung quân, ái quốc mà  nhà  Lý đang muốn thiết lập sau khi già nh quyửn độc lập, tự chủ sau gần nghìn năm Bắc thuộc.

Song song với Phật giáo, nửn Nho giáo chủ yếu phục vụ cho đà o tà o nhân tà i đã được các vị vua nhà  Lý chú trọng. Người có công đầu tiên khi đưa Nho giáo và o đời sống của người dân Việt chính là  vị vua Lý Thánh Tông với công xây dựng Văn Miếu là  nơi thử Khổng Tử­ - người thầy sáng lập ra nửn Nho học. Ngoà i Văn Miếu ở kinh thà nh Thăng Long, ở các địa phương cũng có nhiửu nơi lập ra để thử Khổng Tử­ được gọi là  Văn chỉ.

Nhận thấy sự cần thiết có một đội ngũ tri thức giúp sức cho công cuộc xây dựng và  bảo vệ đất nước, vua Lý Thánh Tông (1023 - 1072) sau khi lên ngôi lúc 31 tuổi đã cho xây dựng Văn Miếu và o năm 1070, là m nơi thử các thánh hiửn đạo Nho. à”ng cũng là  người mở khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên để tuyển chọn nhân tà i.

Những người có công khai sinh Văn Miếu “ Quốc Tử­ Giám

Hà ng bia Tiến sĩ

Vua Lý Nhân Tông (1066 - 1128) tức Lý Cà n Аức, con trưởng của Vua Lý Thánh Tông và  Nguyên phi ử¶ Lan, lên ngôi lúc mới 6 tuổi đã kế nghiệp sự nghiệp đà o tạo nhân tà i quốc gia của vua cha. Ngay từ nhử ông đã được chú trọng dạy dỗ vử cả tri thức văn chương lẫn đạo là m vua. à”ng là  vị vua chú trọng vử văn hóa, giáo dục, mở các cuộc thi kén chọn nhân tà i, và  đặc biệt ưu đãi, trọng vọng các bậc thiửn sư. Năm Ất Mão (1075) vua cho tổ chức một khoa thi Tam trường, là  khoa thi chọn người giửi đầu tiên ở nước ta và  tiến sĩ Nguyễn Văn Thịnh đỗ đầu nhưng không được gọi là  Trạng Nguyên vì phải đến năm 1247 vua Trần Thái Tông mới đặt ra học vị Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Tiếp liửn năm sau (1076), vua cho lập Quốc Tử­ Giám và  bổ nhiệm những người khoa bảng văn học và o dạy. Ban đầu nơi đây là  nơi dạy học cho các hoà ng tử­, công chúa, con quan lại và  sau đó mở rộng thu nhận cả những học trò giửi trong thiên hạ.

Năm 1236 trường được mở rộng và  đổi tên là  Quốc Tử­ Viện, sau là  Quốc Học Viện. Diện tích của Quốc Tử­ Giám rộng hơn Văn Miếu nhiửu, đủ cho khoảng 300 nho sinh nội trú. Có giảng đường dùng để bình văn, có chỗ ở và  phòng họp của nho sinh và  nhiửu gian để in sách. Nho sinh được kén chọn rất kử¹, quê quán xa được nội trú, học ở đây được Nhà  nước bao cấp. ngoà i ra còn có nhà  bếp, kho tà ng chứa ván in khắc sách, công trình phụ...

Không có ghi chép rõ rà ng vử Quốc Tử­ Giám thời Lý “ Trần, tuy nhiên khu học nà y thời Lê đã được Lê Quý Аôn miêu tả trong "Kiến văn tiểu lục" thì : "Nhà  Thái học có ba gian, có tường ngang, lợp bằng ngói đồng. Nhà  giảng dạy ở phía đông và  tây hai dãy đửu 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đửu ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người". Toà n bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đửu là  kiến trúc thời đầu nhà  Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Trà ng.

Аứng đầu Quốc Tử­ Giám là  Tế Tử­u (hiệu trưởng) và  Tư Nghiệp (hiệu phó), phụ trách việc giảng dạy  có Giáo Thụ, Trực Giảng, Trợ Giáo và  Bác Sĩ. Giám sinh (học trò Quốc Tử­ Giám) chủ yếu là  những người đã đỗ thi Hương, qua một kử³ kiểm tra ở Bộ Lễ và  Quốc Tử­ Giám để học tập và  chuẩn bị cho kử³ thi Hội, thi Аình.

Trải qua các triửu đại Lý “ Trần, mặc dù Nho giáo khá được chú trọng trong đà o tạo nguồn nhân tà i nhưng phải đến triửu Lê đặc biệt thời Lê Thánh Tông thì Nho giáo mới phát triển đến cực thịnh.

Vua Lê Thánh Tông là  con trai thứ tư của vua Lê Thái Tông (1442 “ 1497). à”ng ở ngôi được 37 năm và  thời kử³ đất nước dưới sự cai trị của ông được coi là  một trong những thời kử³ cực thịnh vử mọi mặt. Có thể nói hoà n cảnh sinh ra và  lớn lên của vị vua tà i năng nước Аại Việt gắn liửn với cuộc sống của những người dân thường vùng kinh thà nh Thăng Long nên ông hiểu rõ muốn phát triển đất nước cần phải được lòng dân, phát triển vử mọi mặt. Cùng với tà i năng tri thức và  sáng suốt trong cai trị, ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giử nửn giáo dục, thi cử­ lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đử cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoà i Hà n lâm viện, Quốc sử­ viện, Nhà  Thái học, Quốc Tử­ Giám là  những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn. Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Аà n bao gồm những nhà  văn hóa có tiếng đương thời mà  Lê Thánh Tông là  Tao Аà n chủ soái.

à”ng là  người có công xây dựng điện Аại Thà nh và  cho lập bia Tiến sĩ tại Văn Miếu năm 1484 để biểu dương nhân tà i và  khuyến khích họ dùi mà i kinh sử­ để lưu danh bảng và ng tại khu Nhà  Thái Học. Hiện nay hai dãy bia Tiến sĩ còn lưu lại 82 tấm bia ghi danh những vị tiến sĩ từ năm 1442 đến năm 1802 sau khi vua Gia Long dời đô và  lập Quốc Tử­ Giám tại kinh thà nh Huế.

Những người có công khai sinh Văn Miếu “ Quốc Tử­ Giám

Mô hình khu Thái học

Người không có công xây dựng khu Văn Miếu “ Quốc Tử­ Giám nhưng lại được thử tại đây chính là  Tư nghiệp Quốc Tử­ Giám Chu Văn An (1292 - 1370) “ vị thầy của muôn đời. Chu Văn An từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra là m quan mà  ở nhà  mở trường dạy học, học trò của ông có nhiửu người đỗ đạt cao. Có thể nói ông là  người đóng góp quan trọng trong đà o tạo ra nguồn nhân tà i để phục vụ quốc gia, một người thà y mẫu mực, là  tấm gương sáng muôn đời vử tri thức và  đạo đức.

Аến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời và o là m Tư nghiệp ở Quốc Tử­ Giám để dạy Thái tử­ học. à”ng đã cùng với Mạc Аĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia và o công việc củng cố triửu đình lúc đó đang đi dần và o con đường khủng hoảng, suy thoái. Аến đời Dụ Tông, chính sự cà ng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiửu lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đửu là  người quyửn thế được vua yêu. Аó là  Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử­. Vua Trần Nghệ Tông khi lên ngôi đã mời ông ra là m quan nhưng ông khước từ. Khi ông mất, vua Trần đã dà nh cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là  được thử ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là  Văn Trinh.

Hiện nay, trong tầng trên của khu Thái học, có gian thử với tượng của ba vị vua tà i hoa của nước ta gồm có tượng của vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và  tượng Tư nghiệp (Hiệu trưởng) Quốc Tử­ Giám Chu Văn An thử tại gian Bái Аường được các nghệ nhân đúc đồng của là ng nghử Ngũ Xã nổi tiếng thực hiện tại Hà  Nội. Аây là  những danh nhân có công phát triển nửn giáo dục Nho học ở Việt Nam. Văn Miếu “ Quốc Tử­ Giám là  nơi nơi đà o tạo ra nguyên khí của quốc gia và  nó đã hoà n thà nh vai trò của mình trong hà ng trăm năm lịch sử­.

HÆ°á»›ng DÆ°Æ¡ng