Nguyễn Quý Đức ((1648-1720), tên hiệu là Đường Hiên, người là ng Thiên Mỗ huyện Từ Liêm (nay là là ng Đại Mỗ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, ngoại thà nh Hà Nội). Thuở nhử, ông nổi tiếng hiếu học, năm lên 8 tuổi, ông đã theo đến học ông chú họ là Tri huyện Vọng Doanh (tự là Đạo Thông). Học cùng với quan Tri huyện chỉ mới năm sáu năm mà nghĩa lý, bút pháp của ông đửu hết sức tinh thông. à”ng thông minh, đĩnh ngộ khác thường, nên người đương thời khen là "kử³ đồng". Năm Bính Thìn đời Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị 1 (1676), ông thi đình đỗ Thám hoa (Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh).
Năm ấy ông 29 tuổi, được bổ ngay là m Hà n lâm viện Đãi chế. Biết được tà i năng và tư cách của ông, các vua Lê chúa Trịnh liên tục thăng chức cho ông. Năm Tân Dậu (1681) niên hiệu Chính Hoà thứ 2 đời Lê Hy Tông, ông được phong Thiêm sai Bồi tụng và thăng luôn Lễ khoa Cấp sự trung.
Năm Canh Ngọ (1690) niên hiệu Chính Hoà thứ 11, ông được sung là m Chánh sứ là m việc đi tuế cống. Mùa thu năm ấy đi sang nhà Thanh, khi vử ông được thăng Hình bộ tả thị lang, tước Liêm Đường nam và nhiửu chức vị khác. Năm 1691 (niên hiệu Chính Hoà 12), ông được cử đi sứ Trung Quốc.
à”ng là m quan đến Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tước Liêm quận công. Năm Đinh Sửu (1697) niên hiệu Chính Hoà thứ 18, ông vâng mệnh soạn tập Đại Việt sử kí tục biên và đem khắc ván in. Từ đó ông được tham dự và o nhiửu việc cơ mật của triửu đình. Năm Quý Mùi (1703) niên hiệu Chính Hoà thứ 24, chúa Trịnh Căn cùng triửu đình bà n luận chọn người nối nghiệp, song chưa biết lập ai, ông chỉ nói một lời mà ngôi chúa liửn được quyết định, bèn lập chắt đích tôn là Trịnh Cương lên là m chúa.
à”ng được kiêm chức Phụ tá, được tặng kim bà i khắc 8 chữ Thuỷ chung toà n nghĩa, dữ quốc đồng hưu. Năm ông 61 tuổi, ông vẫn được thăng chức Binh bộ Thượng thư, đứng đầu bách quan kiêm tri Quốc tử giám, nắm giữ then chốt giúp nước. Vì thế mà dân có câu khen: "Tể tướng Quý Đức, thiên hạ hưu tức" (Nghĩa là : Quý Đức là Tể tướng, thiên hạ được yên nhà n). Sinh thời, ông lấy việc giáo dục anh tà i là m trách nhiệm của mình, thường hay hội họp học trò trường Giám để bình văn suốt ngà y không mửi, cuối cùng là m cho văn thể của nho học trở lại thuần hậu tốt là nh hơn. à”ng có công tu tạo Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chủ trì việc biên soạn văn bia và dựng nhiửu tấm bia tiến sĩ ở đây. Chúa Trịnh có lần nói với thị thần: "Tà i văn học của người nà y hiện nay hiếm có, ngoà i cái tính cố chấp ngang ngạnh thì có thể nói là một người toà n diện".
Năm ông 70 tuổi, lấy cớ già yếu, ba lần dâng sớ xin hưu mới được triửu đình phê chuẩn. Được gia tặng Thái tể Quốc lão tham dự triửu chính, trí sĩ. Ngà y và o bệ kiến từ tạ, nhà vua đã ngự bút ban cho hai bà i thơ, một cỗ xe bồ luân, một đôi ngựa, lại sức cho dân các xã các tổng trong huyện (quê ông) phải đi nghênh đón, lại ban cho 30 mẫu ruộng để tử rõ ân nghĩa lâu dà i. Khi vử trí sĩ, ông đi tiêu dao thăm thú sơn thuỷ, có xây một toà đình đặt tên là Lạc Thọ đình (tại thôn Ba Lật, nay là Gò Thượng ở là ng Phú Thứ). à”ng cùng Quốc lão Đặng Đình Tướng và Thượng thư Nguyễn Đương Bao, xã Tây Mỗ thường xướng họa thơ văn ở đây. Sau ông lại cho mời người Tây Dương vử vẽ truyửn thần một bức chân dung. à”ng có là m một số bà i thơ Nôm đử Lạc Thọ đình (Đử thơ ở đình Thọ Lạc) rất giản dị mà thâm thúy, bà y tử được tấm lòng trung hậu vẹn toà n của mình:
Quê kệch hãy còn đeo cổ thể
Khôn ngoan chửa chút hợp thời trang.
Vốn hay hai chữ gìn hai chữ
Ngại học một đường là m một đường.
Nay thẳng ơn trên đà xét biết
Cho nên được dự bậu xênh xang.
à”ng tuy đã trí sĩ vử nhà , nhưng hà ng tháng vẫn được tuyên triệu và o triửu để hửi han công việc. Có thể nói, ông được triửu đình trọng dụng cho đến tận lúc lìa xa cuộc đời. à”ng mất tại chính tẩm, hưởng thọ 73 tuổi. Nghe tin ông mất, triửu đình vô cùng thương tiếc, liửn sai các quan đến điếu viếng và tuyên bá dụ tế rằng: "Công lịch sĩ tam triửu, trung cần vị quốc, công lao đa tại, kim nhật cự nhĩ tức thế, thậm ai tích chi. (à”ng trải thử ba triửu vua, trung cần vì nước, công lao còn lại nhiửu, nay vội và ng lìa đời, rất là thương tiếc). Triửu đình dà nh cho ông nhiửu nghi thức đặc biệt, truy tặng nhiửu tước hiệu và ban cho nhiửu bổng lộc cho con cháu và cho dân là ng. à‚u cũng là sự báo đửn xứng đáng cho một vị quan thanh liêm tà i năng có công với dân với nước.
Điửu đặc biệt và cao quý hơn cả là à”ng được dân là ng Đại Mỗ phong là m Phúc thần, thử phụng như thà nh hoà ng là ng, trải qua các triửu đửu có phong tặng sắc là Dực bảo trung hưng chi thần, xếp và o hà ng Trung đẳng phúc thần. à”ng là một vị quan thanh liêm mẫu mực cứng cửi, đồng thời cũng là một vị Nho học tà i giửi có những vần thơ uyển chuyển tinh tế. Sinh thời, ngoà i viết sử, đử tựa sách Việt sử thông khảo, ông còn sáng tác nhiửu thơ văn. Hiện trong kho thư tịch cổ còn lưu giữ được một số tập thơ của ông, như Thi châu tập, Hoa trình thi tập và 72 bà i thơ chép trong Toà n Việt thi lục cùng rất nhiửu thơ Nôm chép trong Nguyễn Qúy thị văn phả. Hiện ở đình là ng Đại Mỗ còn lưu giữ bản thần tích ghi vử hà nh trạng của ba vị công thần triửu Lê (dòng họ Tể tướng Nguyễn Quý Đức) có công với nước và nhất là với là ng Đại Mỗ.
à”ng là một vị quan thanh liêm do tà i năng và đức độ, có công lao lớn với nước với dân nên được phong là m Phúc thần ở là ng, vì thế trong bản thần tích đã ghi chép một số yếu tố ly kử³. Chẳng hạn, nói vử việc sinh ra ông, bản thần tích viết rằng: "Bà phu nhân có lần đi gánh nước đêm, chợt thấy một ngôi sao sa và o thùng nước, từ đó phu nhân có thai, mang thai đủ 13 tháng thì sinh ra ngà i." Khi mới sinh ra, hai tay đửu có nốt ruồi, một nốt ở gan bà n tay trái và một nốt ở lưng bà n tay phải. Có lẽ yếu tố truyửn kử³ nà y không ngoà i dụ ý ca ngợi tư chất kử³ tà i của ông ngay từ lúc lọt lòng, để rồi khi ông mất đi và cho tới ngà y nay, dân là ng vẫn tôn kính thử cúng để ghi nhớ công ơn. Hiện nay ở địa phương còn truyửn tụng vử dòng họ Nguyễn Qúy rằng:
Đỉnh giáp nhất môn thiên hạ hữu
Phúc thần tam diệp thế gian vô.
Nghĩa là : Khoa giáp một cửa tập trung, chỉ có trong thiên hạ
Phúc thần ba đời tiếp nối, chưa từng thấy ở thế gian.
Con Nguyễn Quý Đức là Nguyễn Quý à‚n và cháu là Nguyễn Quý Kính đửu đố tiến sĩ và đửu thà nh đạy trên quan trường.