Ngà y ngà y, ông Phẩy lang thang khắp cánh rừng, tìm rau rừng, quả rừng ăn trừ bữa. Tối đến, ông Phẩy chui và o hang để ngủ. Lần theo dấu vết... người nguyên thủy
Ngược lên huyện miửn núi Lâm Bình (Tuyên Quang) thực tế, chúng tôi vô tình nghe được câu chuyện khó tin vử một ông già , tuổi gần đất xa trời nhưng đã nhiửu năm sống kiếp người nguyên thủy, ăn hang ở lỗ trên hang đá tít trên núi thẳm. Theo những người dân từng gặp người rừng nà y thì mọi thức ăn, nước uống hoà n toà n trông chử và o sự ưu đãi của thiên nhiên, của rừng già . Những câu chuyện tưởng như hoang đường ấy đã khiến chúng tôi quyết tâm băng rừng lội suối để kiếm tìm người nguyên thủy giữa thế kỷ 21 ấy. Theo những thông tin mà chúng tôi có được thì những người đi rừng thường gọi người rừng ấy là ông Phẩy. Cái tên nà y xuất xứ từ đâu thì chẳng ai biết. Trước đây, ở bản Hạ Sơn (Thổ Bình, Lâm Bình) ông lão tuổi xưa nay hiếm ấy có tên Triệu Phúc Tiến, người Dao đử.
Nơi ông Phẩy ở |
Nhử một thanh niên khửe mạnh người bản địa dẫn đường, chúng tôi chuẩn bị đủ đầy đủ tư trang cho hà nh trình vượt núi tìm người rừng đầy mạo hiểm. Trong hà nh trang của chuyến đi ấy có cả muối ăn, gạo, mử³ tôm, bật lửa và một chiếc chăn bông. Những thứ ấy chẳng phải chúng tôi mang theo để sử dụng mà tôi định sẽ biếu ông Phẩy bởi nghe nói, nhiửu ngà y nay ông đã rất yếu vì đói và rét. Đường rừng khó đi. Những tảng đá vôi sừng sững, nhọn hoắt nằm choán lối. Mấy giử trèo leo, chân tay rã rời mà đích đến thì vẫn hun hút xa. Rừng rậm, muỗi, vắt nhiửu vô kể. Mệt nhưng chúng tôi không dám dừng bước bởi sợ là m mồi cho đám côn trùng đáng ghét nà y. Đi mãi thì cũng đến. Trước hang đá, nhà của người rừng, chúng tôi đã không cầm được nước mắt.
Trước cửa hang là nơi ông Phẩy dùng để đun nấu. Và i cây que gá lại thà nh giá đỡ, tà u lá cọ phủ tạm lên trên, tứ bử gió lộng. Tro bếp đã nguội lạnh, có lẽ lâu rồi chủ nhân của cái bếp chẳng nhóm lửa, đun nấu gì. Phía trong hang có dòng chảy của mạch nước ngầm nhưng cũng đã cạn khô. Nửa thanh nứa dùng là m máng hứng nước vẫn được kê ở đó. Đi sâu hơn và o phía trong hang, tôi bắt gặp một phiến đá rộng, nằm nép mình và o vách hang. Đó là chỗ ông Phẩy ngủ bởi có một manh chiếu cũ, sửn rách được gấp gọn, nhét sâu trong khe đá. Không thấy ông Phẩy ở nhà , đoán ông đang đi tìm thức ăn nên chúng tôi chia nhau ra tìm. Hú gọi ầm ĩ nhưng đáp lại chỉ là tiếng vọng của chính mình từ phía núi đá hắt lại. Khi đó trời đã xế chiửu, nghĩ rằng ông Phẩy sẽ trở vử nơi trú ngụ sau một ngà y kiếm ăn nên chúng tôi nán lại chử. Rừng hoang đổ chiửu, chim gọi bầy thê lương, ảm đạm. Bất giác nghĩ đến cuộc sống đơn độc của người rừng, tách biệt hoà n toà n với đồng loại, không cái ăn, cái mặc, chúng tôi ai cũng thấy cay xè khóe mắt. Đêm buông đen kịt thế nhưng bóng dáng người rừng vẫn bặt tăm, không dám ở lại vì e thú dữ, chúng tôi buộc phải xuống núi. Xuống bản, hửi thêm thông tin, chúng tôi được biết, ông Phẩy đã rời hang đá đến sống ở một nơi khác vì nơi đó nước đã cạn, hoa quả không còn. Biết được địa chỉ nhà mới của người rừng, sáng hôm sau, chúng tôi lại ngược núi.
Được phóng viên tặng thực phẩm, ông Phẩy đói quá nên ăn ngay |
Người rừng đã định cư ở nơi xa hơn, cao hơn nên chuyến vượt rừng lần nà y vất vả gấp bội. Tôi không còn đếm nổi mình đã leo qua bao nhiêu phiến đá, vượt lên bao nhiêu con dốc nữa. Khi mọi người kiệt sức, không thể bước tiếp thì nơi ở mới của ông Phẩy cũng hiện ra trước mặt. May mắn là người rừng ở nhà . Có lẽ ông ốm, không đi săn bắn, hái lượm được. Người rừng trông già nua, khắc khổ. Gặp người lạ, ông ngoảnh nhìn hoảng hốt rồi co cẳng chạy. Thế nhưng, chạy được và i bước thì chân ông quửµ xuống. Đói, lả, ông không thể điửu khiển được chân mình nữa. Thân hình chỉ còn da bọc xương của ông run lên bần bật. Có lẽ ông sợ, có lẽ ông đói. Trước cửa hang, có quả bưởi bóc nham nhở. Có lẽ chúng tôi đã phá hửng bữa trưa của ông. Lấy vội gói bửng gạo tôi mua dưới bản đưa cho ông, ông vồ lấy, mắt đầy sự biết ơn. Cầm túi bửng, dù đang đói cồn cà o nhưng ông không vội ăn mà cứ khư khư trên tay tần ngần. Và , chỉ đến khi tôi giục: Cháu biếu ông, ông ăn đi cho đỡ đói... thì ông mới run run đưa miếng bửng lên miệng. à”ng không còn đủ sức để cắn nhử miếng bửng đó nữa. Người đà n ông bản địa đi cùng chúng tôi vội bẻ nhử từng miếng rồi đưa ông ăn. Một lát sau, chừng như cơn đói đã tạm thời được thửa mãn, người rừng mới thôi rung rẩy. à”ng lôi trong chiếc bao tải rách mang theo ra và i quả bưởi héo, mời chúng tôi.
Lấy muôn thú là m bạn và nhiửu năm không biết đến... cơm
Nơi ở của ông Phẩy ngay gần khe suối, cạnh một gốc cây to đã đổ. Nhà của ông chỉ là và i tà u cọ lợp tạm, chẳng đủ che mưa nắng. Một và i cây củi được chụm lại thà nh cái bếp lửa. Tro bếp đã nguội lạnh bởi sau một đêm mưa tầm tã, ông không giữ nổi lửa. Bên nơi ở tuửnh toà ng, tôi được nghe ông Phẩy kể vử cuộc đời mình. Trước đây, cả bản người Dao cùng sinh sống trên đỉnh núi Kéo Ca nà y. Những năm 1960 “ 1968, nghe theo tiếng gọi của Đảng, đồng bà o người Dao đã rời non, xuống chân núi định canh, định cư và lấy tên bản là Hạ Sơn. Bố mẹ ông Phẩy đã chết từ khi ông còn khá trẻ. à”ng Phẩy chỉ có một người em gái đã đi lấy chồng. à”ng không lấy được vợ vì bệnh tật, nghèo túng nên sống đơn độc. Một thân một mình, đau yếu luôn nên hạ sơn được ít lâu, chán cảnh sống dưới bản, ông trở lại rừng.
Bếp nấu ăn trong hang của ông Phẩy |
Lúc còn trẻ, ông trồng lúa nương, đà o củ mà i để có cái ăn. Nhiửu năm lại đây, tuổi cao sức yếu. cộng thêm việc thiếu thốn vử tư liệu sản xuất nên ông phó mặc đời mình cho đại ngà n che chở. à”ng lê lết nay đây mai đó khắp cánh rừng để tìm rau, tìm quả rừng. Tà i sản của ông chẳng có gì ngoà i con dao rựa cùn, cái nồi mất vung và bộ quần áo rách nát. Những thứ ấy ông Phẩy có được cũng là nhử người đi rừng cảm thương nên cho. Không đủ sức lao động, ông Phẩy chỉ đi nhặt quả rừng, rau rừng ăn cho đỡ đói qua ngà y chứ không bao giử ăn trộm. Người dân ở đây kể rằng, xung quanh nơi ông Phẩy ở là những nương sắn, nương ngô ăm ắp sản vật nhưng tuyệt nhiên họ chưa bao giử bị mất dù một củ sắn, bắp ngô. Có người đi là m nương, thấy ông Phẩy đáng thương quá, đã bảo ông nương sắn của họ ngay gần đó, nếu đói ông có thể lấy ăn nhưng ông Phẩy vẫn không tơ hà o. à”ng Phẩy bảo, người ta trồng được củ sắn, cây ngô vất vả lắm, ông không lấy. à”ng Phẩy kể rằng, cách đây khoảng hơn một tháng, vì đói, thèm miếng thịt có muối, thèm cơm trắng, thứ mà rất lâu rồi ông không được ăn, ông Phẩy đã đánh liửu xuống núi, tìm đến nhà người cháu để xin ăn. Tuy nhiên, người cháu của ông đã không cho, xua đuổi ông vử rừng. Mệt nhọc, ông lại quay trở lại rừng sâu. à”ng đi mãi mới lên được đến hang đá mà trước đó tôi đã tìm đến. Không còn đủ sức khửe leo núi nữa, ông Phẩy đà nh ở lại hang đá. Nhưng ở nơi nà y không có nước cũng chẳng thể tìm được rau quả ăn nên được và i hôm, được người đi rừng cho củ sắn, củ khoai, ông Phẩy lấy lại chút sức lực, leo qua nhiửu con dốc để đến nơi ở mới nà y.
Đưa người rừng vử bản
Tận thấy cảnh sống khổ sở của người rừng, lo cho sức khửe của ông nên chúng tôi quyết định tìm cách đưa ông xuống núi. Đó là một hà nh trình rất đỗi khó khăn. Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, chính quyửn địa phương cũng đã có kế hoạch đưa ông vử... tái hòa nhập cộng đồng nhưng ngặt một nỗi không tìm nơi nà o có đất để cắm cho ông một nóc nhà nho nhử. Điệp khúc chử có đất cứ tái diễn suốt năm nà y qua năm khác. Biết sức khửe của người rừng không thể chử thêm được nữa nên chúng tôi đã cùng mấy người dân bản địa già u lòng nhân ái dựng tạm túp lửu bằng bạt ở ngay rìa suối cạnh bản Hạ Sơn để ông Phẩy ở. Kẻ qua người lại thấy hoà n cảnh đáng thương của ông đã tự nguyện góp gạo, góp rau để ông sống qua ngà y. Một và i ngà y sau, thấy ông Phẩy đã được chúng tôi đưa xuống núi, có lẽ thấy không thể chử được nữa nên chính quyửn sở tại đã dựng một ngôi nhà gỗ, lợp mái tôn trên mảnh đất của một người họ hà ng xa của ông Phẩy để đón ông vử. Lần đầu tiên được ở trong ngôi nhà tuy nhử bé, tuy trống huơ trống hoác nhưng ông Phẩy vui lắm. Gần cuối đời mới được chui và o trong cái gọi là nhà thì không vui sao được. Với mức hỗ trợ của nhà nước dà nh cho người neo đơn, ông Phẩy có cuộc sống đúng nghĩa của con người.