Trời chập choạng tối. Khói hương trầm bảng lảng ngà o ngạt khắp nghĩa trang xã Hoà Phong, huyện Hoà Vang, TP Đà Nẵng, chị Yến vụng vử kéo áo lau nước mắt khi đứa con trai tìm gọi: Mẹ ơi!.
64 người cha liệt sĩ
Sinh năm 1965, chị Yến sớm chịu cảnh thiệt thòi khi thiếu vòng tay yêu thương, chăm sóc của cả cha lẫn mẹ, lớn lên trong sự đói khổ cùng cực với ông bà nội. Cha chị ra chiến trường khi chị còn rất nhử và đã hy sinh sau đó. Một năm sau mẹ chị cũng gia nhập đội du kích xã.
Khi cha hy sinh, cô bé Yến mới được 3 tuổi, chưa hiểu nổi sự tà n khốc của chiến tranh gói gọn trong hai chữ hy sinh mà cha mình phải gánh lấy. Sau nà y, chị mập mử hình dung hình ảnh của cha bằng những lời kể bị ngắt quãng trong nước mắt của bà nội.
Cứ mỗi cuối tuần, chị Yến lại cùng con trai ra nghĩa trang xã chăm sóc 64 ngôi mộ vô danh mà chị gọi bằng Cha.
Mãi đến năm 2003, một người đồng đội cũ của cha mới tìm được chị Yến để trao lại tấm ảnh thẻ trắng đen theo lời trăng trối trước lúc hy sinh. Nhận tấm ảnh lưu lạc hơn 35 năm đã ngả mà u và ng ố, tình máu mủ cha con trỗi dậy khiến chị Yến bật khóc nức nở. Người đồng đội kể rằng ông Trần Văn Thái cha cô đã hy sinh cùng với 63 người đồng đội khác trong trận đánh tại sân bay An Định.
Có được tấm ảnh thẻ cũ, chị đem phục hồi phóng lớn rồi trang trọng đặt lên bà n thử xem như báu vật của cha để lại, bên cạnh là Huân chương kháng chiến hạng Nhất và bằng Tổ quốc ghi công. Năm 2003, liệt sĩ Trần Văn Thái cùng 63 người đồng đội hy sinh tại sân bay An Định được quy tập vử nghĩa trang liệt sĩ xã Hoà Phong. Do không xác định được chính xác hà i cốt của từng liệt sĩ nên phần mộ của 64 người đồng đội được đặt nằm cạnh nhau trong nghĩa trang với cùng cái tên vô danh lạnh lẽo. Chị Yến gọi tất cả những người cùng nằm xuống với ba mình là Cha và âm thầm chăm sóc 64 ngôi mộ như cách của người con hiếu thảo.
Mỗi chiửu cuối tuần, chị lại dà nh thời gian ra nghĩa trang cùng nắm hương to cộm trên tay với niửm tin: Ba tui sẽ được ấm lòng, bớt đi sự lạnh lẽo nơi chín suối. Rồi chị đến từng ngôi mộ thủ thỉ như đang nói chuyện với người thân cho đến tối mịt mới chịu ra vử.
Tâm nguyện của tui là liên lạc với thân nhân của những liệt sĩ ngoại tỉnh được an táng tại nghĩa trang nà y để những người nằm xuống được đoà n tụ với gia đình. Chắc người thân của những liệt sĩ cũng mong mửi như tui ngà y trước - chị Yến day dứt khi đọc bảng danh sách dà i dằng dặc ghi tên những liệt sĩ quê ở tận Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội,... chưa tìm được thân nhân.
Ngậm ngùi Dáng mẹ
Sống với ông bà nội, chị Yến một buổi đến trường, buổi còn lại ra đồng giữ trâu, cắt cử phụ giúp ông bà . Tuổi thơ của chị trôi qua theo những vụ mùa lam lũ, hiếm hoi lắm mới được mẹ vử thăm chớp nhoáng. Sau đó, mẹ chị bị trúng đạn nứt đầu, gãy chân; phải liên tục chuyển viện điửu trị nên những cuộc gặp chớp nhoáng của hai mẹ con cũng không còn. Nhiửu đêm nằm ngủ, nghe tiếng người đập cửa tui lại vùng dậy tưởng mẹ vử thăm, chị Yến bồi hồi nhớ lại những năm tháng xa cách.
Rồi bà Đãi mẹ chị đi bước nữa với một người thương binh cùng cảnh, chị Yến lủi thủi sống với ông bà nội, mẹ chị tất bật với cuộc sống cơm, áo, gạo, tiửn ở gia đình mới nên hiếm khi vử thăm con. Năm chị học lớp 6, một lần cô giáo ra đử tập là m văn Em hãy tả người mẹ thân yêu của mình. Đọc xong đử bà i, cô bé Yến thút thít khóc vì nhớ mẹ, cô giáo cũng ứa nước mắt khi biết hoà n cảnh thiệt thòi của học trò.
Chỉ mấy lần ít ửi được mẹ vử thăm, dòng cảm xúc của cô bé Yến hồn nhiên tuôn trà o thà nh bà i thơ Dáng mẹ: Cánh cò lặn lội bử sông/ Mẹ em lặn lội trên đồng ruộng sâu/ Sớm chiửu mưa nắng dãi dầu/ Cánh cò trắng, áo mẹ nâu thanh bần/ Hai sương một nắng tảo tần/ Trèo non, lội suối, đồng gần, chợ xa/ Mử sáng đi, tối vử nhà / Miếng cơm, tấm áo, gói quà nuôi con/...
Đọc xong bà i là m văn đặc biệt, cô giáo ôm chị Yến và o lòng rồi nhận chị là m con. Kể từ đó, suốt mấy năm học cấp 2, mỗi lần là m tập là m văn, chị Yến lại lấy thơ ra để tả cảnh, tả người... mà mỗi lần chấm bà i cô giáo lại rơi nước mắt.
Ngồi nói chuyện với tôi, bao nhiêu ký ức tuổi thơ của chị lại dội vử nguyên vẹn: Mỗi lần nhớ mẹ, tui lại chạy ra đường cái đứng nhìn những người đà n bà trong là ng đi chợ. Tối đó, thường mơ thấy mẹ vử ôm tui và o lòng, nói sẽ không đi đâu nữa. Có lần mơ thấy mẹ chết, tui vùng dậy gọi mẹ rồi khóc khiến bà nội nằm bên cạnh cũng khóc theo. Bà nói sẽ tìm mẹ vử với tui để dỗ tui ngủ tiếp.
Đến năm lớp 12, chị Yến thi học sinh giửi đạt giải nhì môn Văn của tỉnh, được cho ra Hà Nội học nhưng vì hoà n cảnh ông bà nội già yếu không ai chăm sóc, chị không thể đi được. Đậu tốt nghiệp cấp 3 loại giửi nhưng không có tiửn học tiếp, chị ở nhà là m nông nuôi ông bà nội. Ước mơ của tui là được là m cô giáo dạy Văn nhưng..., chị nghẹn giọng không nói thêm được nữa.
Cõng con đi học
Năm 1990, chị kết hôn với anh Thái Quang Tùng (Hoà Quý, Hoà Vang). Một năm sau, cháu Trọng chà o đời trong sự đói khổ, thiếu thốn. Quần quật suốt ngà y trên đồng vẫn không kiếm đủ cái ăn, anh Tùng nói chị chịu khó nuôi con để anh và o Nam là m ăn rồi đón hai mẹ con và o khi đã ổn định nơi ăn chốn ở. Chị tin tưởng để chồng ra đi, nà o ngử chử đợi 1 tháng, 2 tháng rồi đến mấy năm trời vẫn không thấy tin tức của chồng, chị mới biết người chồng đã phụ bạc, ruồng bử mẹ con chị.
Khai sinh cho đứa con trai đầu lòng, chị lấy theo họ mẹ như muốn quên đi người đà n ông đã chối bử trách nhiệm là m chồng, là m cha. Biửn biệt đến 9 năm sau, anh Tùng báo tin thú nhận với chị là đã có vợ mới, mẹ con chị liệu bử mà đùm bọc nuôi nhau.
Đã có lúc chị nghĩ quẩn định kết thúc cuộc đời nhưng khi nhìn đứa trẻ ngây thơ vô tội, chị lại thôi. Tuổi thơ tui đã bơ vơ vì mất cha, thiếu mẹ; tui không muốn con mình lại phải chịu cảnh đó. Dù khổ mấy tui cũng cố gắng nuôi con học hà nh đến nơi đến chốn để nó khửi tủi phận, chị cay đắng nói vử đời mình.
Cháu Trọng sinh ra ốm yếu, bị bệnh khớp ngay từ nhử. Mỗi khi trái gió trở trời, chân Trọng sưng tấy, đau nhức không đi được, chị Yến lại phải gò lưng cõng con đến trường. Mùa đông năm trước, trên đường cõng con đi học, chị bị trượt chân té ngã, hai mẹ con lấm lem bùn đất trông thật thảm thương. Tối đó, cháu Trọng nói với chị không muốn đi học nữa vì đi học là là m khổ mẹ. Chị ôm con và o lòng giải thích: Được cõng con đi học là niửm vui của mẹ, con phải cố gắng học giửi thì sau nà y mẹ con mình mới hết khổ.
Bản thân chị Yến cũng bị bệnh hen suyễn, bệnh tim khá nặng. Khi đi là m thuê xa, chị phải mang theo thuốc trong người để kịp lấy uống mỗi khi lên cơn khó thở. Một người hà ng xóm của chị cho biết, chị Yến mới bị ngất xỉu ngay tại xưởng là m, nằm viện 3, 4 ngà y mới tỉnh lại. Bác sĩ khuyên không nên là m việc nặng, phải nghỉ ngơi một thời gian nhưng chị vẫn cố gắng đi là m kiếm tiửn trả nợ ngân hà ng và nộp tiửn học cho con.
Hiện cháu Trọng đang học lớp 12A4 trường THPT à”ng àch Khiêm, sức học và o loại khá giửi nhưng Trọng chỉ nộp đơn thi và o trường Cao đẳng Điện lực miửn Trung mà không thi đại học với lý do: Bớt đi 1 năm để sớm đi là m kiếm tiửn chữa bệnh cho mẹ, rồi còn dà nh dụm để trả khoản nợ 7 triệu đồng mẹ vay của ngân hà ng chính sách người nghèo để sửa nhà trong cơn bão năm 2006.