Bà là một trong hai người còn lại của là ng Ngũ Xã giữ được nghử truyửn thống của tổ tiên, một trong 4 nghử danh bất hư truyửn của đất Kẻ chợ xưa: "Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Trà ng, thợ và ng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã". Những bước thăng trầm Gốc gác của gia đình bà Ngô thị Đan gắn liửn với sự hình thà nh của là ng đúc đồng Ngũ Xã. Từ đời Lê, khi các phường thợ cùng nhau ra bán đảo hồ Trúc Bạch lập nên là ng gọi là Ngũ Xã Trà ng, tổ tiên bà đã có mặt ở đây.
Trải qua mấy trăm năm, như vậy, bà Đan là người chính gốc Kinh kử³ Kẻ chợ.Như các gia đình khác trong là ng, người cha của bà cũng là m nghử đúc đồng. à”ng mất sớm, năm bà mới lên 2 tuổi, còn mẹ bà đi mua phế liệu nhôm, thiếc ở các nhà máy và bán lại.
Vì vậy những hình ảnh vử nghử với bà chỉ thoảng qua. Người Ngũ Xã là m nghử một cách ăn đong, nhà nà o là m nhà đấy theo kiểu "sáng sửa cưa, trưa mà i đục" nên thợ đúc rất nghèo.
Chỉ năm 1952 khi đúc một pho tượng lớn cần trưng dụng tất cả thợ giửi trong là ng, thì là ng nghử mới nhộn nhịp. Đó là pho tượng Phật Adiđà của chùa Thần Quang, nằm ngay chính trong là ng. Tượng cao 3,95 mét, nặng 11 tấn toạ lạc trên một đà i sen bằng đồng có 96 cánh. Không chỉ kử³ vĩ vử kích thước, pho tượng nà y còn được đúc theo kử¹ thuật rỗng liửn khối, một kử¹ thuật bí truyửn mà chỉ là ng Ngũ Xã mới có.
Sau khi đúc pho tượng ấy, là ng Ngũ Xã lại trở vử không khí trầm lắng vốn có.Năm 1954, khi giải phóng thủ đô, nghử đúc không còn để lại chút dư âm gì vì khi tiếp quản, chuyện thử cúng bắt đầu bước sang giai đoạn mới, mọi người không mua nhiửu đồ thử như trước nữa. Khi đất nước có chiến tranh, nguyên liệu đồng rất cần thiết nên Nhà nước quản lý, không cho ra bên ngoà i, cả là ng cũng không còn nghử.
Nghệ nhân Ngô Thị Đan bên cạnh một số sản phẩm đồng cuả mình
Bà Đan may mắn được học nghử từ những người giửi bậc nhất. Anh ruột của mẹ bà , ông Nguyễn Đức Thuận từng và o kinh đô Huế đúc theo yêu cầu của vua Khải Định và được vua phong một chức quan nhử. à”ng nổi tiếng với việc đúc thà nh công một tà u lá dừa bằng đồng theo yêu cầu của vợ quan Thống sứ Pháp. Vử sau ông là người đúc quả chuông Cổ Lễ nổi tiếng.
Khi lấy chồng, gia đình nhà chồng bà có truyửn thống đúc đồng nổi tiếng bậc nhất là ng Ngũ Xá. Bà học nghử từ chính cha chồng và các anh em ruột của ông, rồi bà còn học lửm nghử của cụ Nguyễn Văn Tùy là bác chồng. Cụ dạy bà bằng cách truyửn khẩu nói chuyện.
Cũng từ đấy, bà trải qua bao thăng trầm với nghiệp cũ của là ng.Năm 1963, ông Nguyễn Văn Phấn - chủ nhiệm HTX nghử Trúc Sơn xin với Nhà nước duy trì một tổ đúc đồng nghử truyửn thống. à”ng Phấn mời cha chồng bà là cụ Nguyễn Văn Đối và cụ Nguyễn Văn Tùy lên là m thợ đúc chính. Vử sau, chính các cụ là người đã đúc pho tượng 79 mùa xuân đặt ở đồi Thanh Tước.
Sau nhiửu năm bươn trải đủ các nghử, từ thợ cơ khí, là m tại cty ăn uống... những năm 70, cuộc sống quá khó khăn, bà quay vử đúc nhôm, gồm các chắn xích xe đạp, cửa ti vi, cửa tủ, hoa văn trang trí "bán lậu" tại chợ Đồng Xuân. Để là m các mặt hà ng đó, cần phải đục các bộ khuôn sắt thì các mặt hà ng mới đanh, mới nổi mà u sáng lên được. Việc đúc các khuôn hoa văn bằng sắt lúc ấy, ngay thợ bậc 6 cũng không đúc được nhưng bà đã là m thà nh công. Nghử đúc Đồng trở lại khoảng cuối những năm 1980, khi đó chỉ có 3 gia đình trong là ng khôi phục nghử xưa.
Bí mật tinh hoa đúc đồng Ngũ Xã Căn nhà nhử của bà ở phố Nam Trà ng bà y kín đồ đồng, từ đỉnh đồng, lư hương, hạc đồng... đến tượng Phật, tranh đồng, tượng bán thân. Tất cả đửu tinh xảo, uy nghi, huyửn bí. Để đúc thà nh công một sản phẩm đồng, người thợ phải trải qua rất nhiửu khâu vất vả, nặng nhọc. Nếu không đủ kiên nhẫn thì không thể là m được nghử nà y.
Trước tiên phải có một mẫu sản phẩm được điêu khắc từ đất sét, trước khi mẫu và o khuôn phải chỉnh kử¹ các đường nét. Đắp khuôn là việc đòi hửi sự công phu, đất lớp đầu tiên để đắp khuôn là đất sông Hồng phải được là m nhuyễn, sạch sạn. Sau đó, dùng giấy bản và đất nhà o với nhau, người ta thường gọi là chọc đất để đất và giấy bản nhuyễn với nhau. Khi bắt đầu là m khuôn, lấy dao dần thật kĩ, thật dẻo tay để nguyên liệu đất và giấy bản có độ mịn, độ dẻo khi người thợ dà n ra thì không bị rách và khi áp và o mẫu tượng thì ăn nét rất chuẩn xác.
Cách là m khuôn đúc ở Ngũ Xã lâu hơn các nghử là ng khác, sau khi lớp đất đầu tiên đắp, đến lớp áo sau và o, để tự khô sau khoảng 2 ngà y mới thực hiện "vỗ khuôn" để lấy các nét kử¹, các đường vân nhử nhất, các "may tre" của sản phẩm.Khi nấu đồng, người thợ phải biết chọn than, tránh than non bởi khi đồng nóng chảy, nếu than non sẽ ếp lại và bị khê đồng, khi đó đồng sẽ đặc lại không thể chữa được. Phải chọn than nặng, than già và nhiệt nóng chảy của đồng phải đạt trên 1000 độ trở lên.
Theo kinh nghiệm của người thợ, khi nà o nhìn thấy nước đồng trong nồi có ánh và ng khói bốc lên, thì có một nước đồng tốt.Khi rót đồng, để đồng thoáng và trong, phải gạt hết bã, sau đó rót và o khuôn. Rót phải đửu tay, mũi đồng xuống tròn đửu không được ngắt quãng, nhưng phải biết lúc nà o cần phải ngừng. Đúc các quả chuông khi lên đến đỉnh chuông, phải giảm dần đửu mũi đồng, nhất là ở các quả chuông lớn.
Theo kinh nghiệm của bà Đan, nếu khuôn để nguội, rót đồng và o sẽ bị rỗ, nên để ấm chứ cũng không nên để nóng già . Đúc chuông to thì phải dùng đồng đử nguyên chất, thiếc nguyên chất, thiếc già pha theo tỷ lệ thích hợp là kinh nghiệm bí truyửn của thợ. Khâu sửa nguội thì sửa theo mẫu, trước kia chỉ dùng dũa, chạm nhưng hiện nay có máy mà i với đá mà i rất nhử có thể mà i trong các khe nhử.
Để tạo ra các sản phẩm độc đáo, bà Đan cũng đã mời nhiửu thợ giửi vử chạm bạc, điêu khắc tham gia hoà n thiện. Theo bà , đức tính cần thiết nhất của một người thợ đúc đồng là kiên nhẫn, biết yêu nghệ thuật và say mê cái đẹp, thấy một đường nét đẹp phải biết nâng niu và cà ng cố gắng là m cho nó đẹp thêm. Và những đức tính ấy, những người thợ Thăng Long tà i hoa vốn không thiếu.Năm 2009, bà Ngô Thị Đan được UBND TP Hà Nội phong tặng danh hiệu Nghệ nhân, và là người đúc đồng duy nhất của Hà Nội nhận được danh hiệu nà y.