Xưa nhất là bộ Đại Việt sử ký toàn thư thì cũng mới chỉ được xác định là bản Chính Hòa 18 (1697). Tà i liệu giấy mực ghi chép khác lại định bản cà ng muộn hơn. Giữa thời điểm soạn bản và thời điểm định bản là cả một khoảng cách. Tam sao thất bản là điửu có thể xảy ra khiến cho nội dung mất đi tính xác định cụ thể của nó. Văn bia khắc trên đá và o thời Lý Trần hầu hết đã khắc lại và cũng chưa phát hiện tấm nà o nói cụ thể quê ông bà , cha mẹ Ngà i. Những văn khắc khác trên gỗ trên đồng cũng cùng chung tình trạng.
Truyửn thuyết dân gian cũng được sưu tầm, ghi chép muộn mà ng và nói chung, nơi nà o thuận tiện giao thông, được các nhà nghiên cứu chú trọng thì ghi lại trước và nhiửu hơn, nơi nà o cách sông cách đò thì ghi lại ít hơn. Thà nh ra, việc nhân dân nhiửu là ng xã nhận là ng mình là quê gốc của Lý Thái Tổ đã diễn ra lâu nay và có những lúc nóng bửng thực sự. Các nhà nghiên cứu lập luận, suy luận và ý kiến đưa ra cũng rất đa dạng. Chúng tôi, cũng như biết bao những người hiếu cổ, yêu truyửn thống dân tộc khác, lặng lẽ đi tìm. Cho đến hôm nay, gặp được một tư liệu quý giá liên quan đến quê hương ông bà , lăng miếu cha mẹ Lý Công Uẩn phù hợp với suy nghĩ lâu nay của mình, mới giới thiệu cùng bạn đọc.
Bản dập tấm bia Hoa Lâm Tam Bảo Thị. |
Tấm bia có tên là Hoa Lâm Tam Bảo Thị. Bản dập tấm bia hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong tình trạng còn khá nguyên vẹn. Ký hiệu lưu trữ là 2985/2986. Bia hoà n toà n không có dấu hiệu tẩy xóa hoặc khắc lại. Thác bản 2 mặt, khổ 54 x 90cm, gồm 43 dòng chữ Hán và Nôm, toà n văn có 1.222 chữ (một số chữ mặt sau khắc kiểu tiểu chú, chữ rất nhử, mử, khó đọc), có hoa văn, có chữ húy Trừ. Niên đại: Thịnh Đức thứ 4 (năm 1656). Nơi sưu tầm là quán thôn Thái Đường Đông (có người sửa là Thái Đường Thị với nghĩa là quán chợ Thái Đường), xã Danh Lâm, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngà n, phủ Từ Sơn.
Thời gian dập thuộc đợt đầu khoảng từ năm 1920 đến 1925. Hoa văn trán bia mặt trước khắc lườ¡ng long triửu nhật. Mặt trời tửa 10 tia sáng hình ngọn lửa thẳng, rực rỡ. Diửm trên đầu bia cũng hoa văn ngọn lửa dáng hơi cong lên. Hai diửm bên khắc hình ảnh chim (đứng, bay, liệng, đậu), hoa sen cách điệu, hoa dây và hoa cúc. Diửm dưới là các cánh sen cách điệu kết thà nh băng ngang.
Tên bia khắc chữ khải đặc trưng thời Lê, hoa mĩ, mửm mại, đóng khung trên trán bia. Mặt sau, trán bia khắc đôi phượng chầu mặt trời dáng uyển chuyển, sinh động. Mặt trời tửa 10 ngọn lửa sáng cong lên. Diửm hai bên và diửm trán khắc liên tục chim các tư thế, hoa sen, hoa dây, hoa cúc, phượng hoà ng. Diửm chân là cánh hoa sen kết thà nh băng ngang. Hoa văn sắc nét, chạm trổ công phu, tỉ mỉ. Người soạn: Họ Đồng, tên hiệu Chuyết Phu; quê quán: xã Thiết àšng, huyện Đông Ngà n; chức vị: Tán trị thừa chính sứ các xứ Sơn Tây chí sĩ; tước Lai Xuyên bá. Người viết chữ: Nguyễn Sĩ Duyên; học vị: Trúng thư toán khoa Mậu Dần, hoa văn học sinh; chức vị: tước Văn Lâm nam và Đỗ Văn Vị; chức vị: Đô lại Bộ công; tước Văn Hương nam.
Nội dung văn bia nói vử việc trùng tu chợ Tam Bảo trên đất Hoa Lâm. Trong đó đoạn mở đầu có những thông tin rất đáng chú ý. Phiên âm: Tự hữu thử thiên địa dĩ hữu thử thị khu tư. Hoa Lâm cổ tích thị nhất khu nãi tiửn Lý triửu Thánh Thiện tổ khảo tỉ chi danh hương dã. Khảo tỉ lăng miếu tại chi đông, Trinh Tiết phạm cung tại chi tây. Phương dân tôn phụng linh ứng mặc phù nhi thị cư tự miếu chi trung. Thị trung quan lộ vãng lai, nhân nhân tụ hội, chân đệ nhất hảo xứ dã. Tự cổ chi nhân nhật trung vi thị mỗi nguyệt lục thiên chí sóc vọng nhật nhân giai cúng dà ng hiển tích tố hiệu vi Tam Bảo vi thị. Dịch nghĩa: Từ khi có trời đất đã có khu chợ nà y.
Một khu chợ cổ mang tên Hoa Lâm nà y vốn là quê hương nổi tiếng của Thánh Thiện tổ khảo (ông nội), Thánh Thiện tổ tỉ (bà nội) triửu Lý trước đây. Lăng miếu khảo tỉ (bố, mẹ) nằm ở phía đông chợ. Chùa Trinh Tiết nằm ở phía tây chợ. Dân bản xứ phụng thử nhiửu linh ứng mà chợ được lập giữa miếu và chùa.
Giữa chợ có đường cái quan qua lại, người người tụ hội. Đúng là chỗ tốt hà ng đầu vậy. Từ xưa, ngà y họp chợ mỗi tháng sáu phiên cho đến ngà y sóc ngà y vọng, mọi người đửu cúng dà ng được linh ứng, cho nên gọi tên là chợ Tam Bảo. Tấm bia khẳng định. Hoa Lâm là vùng quê nổi tiếng (danh hương) của ông nội, bà nội Lý Công Uẩn. Lăng miếu của cha và mẹ Lý Công Uẩn là ở đây, nằm ở mé đông của chợ Hoa Lâm. Có thể, Thánh Thiện là tôn hiệu của ông nội, bà nội Lý Công Uẩn.
Như vậy có thể nói, trong số những tư liệu thà nh văn liên quan đến quê hương Lý Công Uẩn đây là tư liệu có niên đại định bản sớm nhất. Thực chứng niên đại định bản có tầm quan trọng hà ng đầu để nhận định vử giá trị cũng như nội dung thông tin. Theo dõi những ý kiến nghiên cứu, tranh luận vử vấn đử trên từ trước tới nay, chúng tôi chưa từng thấy ai sử dụng tư liệu độc đáo nà y dù nó đã nằm trong kho Viễn Đông Bác cổ và sau đó là kho Viện Nghiên cứu Hán Nôm ngót một thế kỷ.
Tấm bia được thực hiện bởi những người có học vị và tước vị, đửu đã và đang thuộc bộ máy quan phương của triửu đình phong kiến lúc bấy giử, họ chứng kiến thực tế và có tri thức sử học. Hơn nữa, chắc chắn họ có sự đồng thuận của nhiửu trí thức khác khi tham gia trùng tu chợ Hoa Lâm lúc đó.
Vử nội dung, điửu cần nói trước tiên là , việc xác định quê hương (chỗ ở của ông bà , bố mẹ) Lý Công Uẩn như nội dung tấm bia, hoà n toà n không mâu thuẫn với nhiửu tà i liệu Hán Nôm quan trọng khác mà chúng tôi đã có dịp tiếp cận. Các bản Đại Việt sử ký toà n thư, Đại Việt sử ký tiửn biên... đửu thống nhất ghi Lý Công Uẩn là người Châu Cổ Pháp (nếu khác đi, thì đó chỉ là ý kiến của những người dịch sách khi chú thích các địa danh), mà chúng ta biết rằng, Châu Cổ Pháp đời Lý là phủ Thiên Đức, sau nà y là phủ Từ Sơn, thì trong suốt quá trình lịch sử, Hoa Lâm nằm gọn gà ng trong đó. Tấm bia cụ thể hóa cho ta biết, trong châu đó, là ng (hương?) Hoa Lâm là quê chính của Lý Công Uẩn. Đây là thông tin rất quý giá, rất đáng để tiếp tục nghiên cứu.
Năm 2000, chúng tôi đã dập và giới thiệu tấm bia Lý gia linh thạch hiện còn ở chùa Tiêu. Với những chữ còn đọc được trong nội dung, có thể khẳng định chắc chắn rằng: Những người soạn bia cũng như quan viên lão đẳng các xã thôn Đình Bảng, Dương Lôi, Tam Sơn, Tam Tảo, Tiêu Sơn Thượng, Tiêu Long (tham gia trùng tu chùa Tiêu lúc đó) đã đồng thuận là : Xã Hoa Lâm huyện Đông Ngà n là quê Phạm Mẫu, mẹ Lý Công Uẩn.
Như vậy, Lý Gia lăng trên đất Hoa Lâm - nay thuộc thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, tiếp liửn Đông Hội, thuộc huyện Đông Anh, thà nh phố Hà Nội - dù đã không còn, một lần nữa được khẳng định không chỉ dựa và o thơ của Nguyễn Phi Khanh, câu đối của Nguyễn Tư Giản và kí ức của các bậc lão thà nh yêu quê hương mà còn bằng văn bia quý hiếm cách đây hơn ba thế kỷ.