Bản đồ thà nh Cổ Loa.
Trong thời kử³ cai trị của người Trung Quốc nó từng có tên là huyện Tống Bình, xuất hiện trong sử sách từ những năm 454-456 thời Nam Bắc triửu của Trung Quốc.
Năm 545, Lý Bí đánh thắng quân nhà Lương lập nên nước Vạn Xuân độc lập. à”ng tự xưng Lý Nam Đế, định đô ở miửn cửa sông Tô Lịch Hà Nội. à”ng cho lập điện Vạn Thọ là nơi họp bà n việc nước. Lý Nam Đế cũng cho dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) tên là Khai Quốc, tiửn thân của chùa Chùa Trấn Quốc ngà y nay.
Vử sau Hà Nội được đổi tên gọi là Đại La (nguyên là tên của vòng thà nh ngoà i cùng bao bọc lấy vòng thà nh nhử hơn ở trong). Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có viết:
"Thà nh nà y do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 (767) đời Đường; năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), Triệu Xương đắp thêm; năm Nguyên Hòa thứ 3 (808), Trương Chu lại sửa đắp lại; năm Trường Khánh thứ 4 (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thà nh nhử, gọi là La Thà nh; năm Hà m Thông thứ 7 (866), Cao Biửn đắp ngoại thà nh bao quanh "kim thà nh", cũng gọi tên là La Thà nh."
Long Đỗ (rốn rồng) cũng là một tên gọi của Hà Nội, nhưng không phải tên gọi chính thức, tên gọi nà y xuất hiện từ thời Cao Biửn. Truyửn thuyết kể rằng, và o năm 866, khi Cao Biửn mới đắp thà nh Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.
Thời kử³ đô hộ Phương Bắc nhà Tuử³ (581-618), nhà Đường (618-907), trị sở ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngà y nay), tới đời Tuử³ chúng mới chuyển đến Tống Bình, tức Hà Nội.
Thà nh cũng còn có tên là Đại La. Đại La, hay Đại La thà nh, nguyên là tên vòng thà nh ngoà i cùng bao bọc lấy Kinh Đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng thà nh quách": trong cùng là Tử Cấm thà nh (tức bức thà nh mà u đử tía) nơi vua và hoà ng tộc ở, giữa là Kinh thà nh và ngoà i cùng là Đại La thà nh. Năm 866 Cao Biửn bồi đắp thêm Đại La thà nh rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thà nh nà y được gọi là thà nh Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thà nh Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biửn) ở giữa khu vực trời đất..." (Toà n thư, Tập I, H, 1993, tr 241).
Khi Việt Nam già nh được độc lập, Hà Nội lúc đó trở thà nh thủ đô của Đại Việt từ thế kỷ thứ 11, với tên gọi Thăng Long (có nghĩa là "rồng bay lên"), sau khi Lý Công Uẩn ra chiếu dời đô năm 1010. Thăng Long là thủ đô cho đến năm 1397, khi thủ đô được di chuyển vử Thanh Hóa (tức Tây Đô). Thăng Long khi đó có tên gọi là Đông Đô. Sách Đại Việt sử ký toà n thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toà n thư Sđd “ tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).
Năm 1408, nước Đại Ngu của cha con họ Hồ bị quân đội của nhà Minh xâm chiếm và Đông Đô bị người Minh đổi tên thà nh Đông Quan.
Năm 1428, sau khi quân đội của Lê Lợi giải phóng đất nước thì Đông Quan được đổi tên thà nh Đông Kinh - tên gọi nà y người châu à‚u phiên âm thà nh Tonkin. Sách Đại Việt sử ký toà n thư cho biết sự ra đời của cái tên nà y như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đử, và o đóng ở thà nh Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngà y 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thà nh Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thà nh Thăng Long là Đông Kinh" (Toà n thư - Sđd. Tập 2, tr 293).
Thời Tây Sơn, vì kinh đô đóng ở Phú Xuân thà nh còn có tên là Bắc Thà nh.
Năm 1802, khi nhà Nguyễn chuyển kinh đô vử Huế, nó lại được đổi tên thà nh Thăng Long, nhưng lần nà y chữ "Long" biểu hiện cho sự thịnh vượng, chứ không phải là rồng, với lý do rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).
Sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bử hoà ng thà nh cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoà ng thà nh Thăng Long lại rộng quá.
Năm 1831 vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội: tỉnh nằm trong (nội) hai con sông (hà ) là sông Hồng và sông Đáy. Khi Việt Nam tiếp xúc với phương Tây, tên Hán-Việt của Hà Nội Đông Kinh, được viết thà nh Tonkin và được người châu à‚u dùng phổ biến. Năm 1873, người Pháp bắt đầu tiến đánh Hà Nội và 10 năm sau thì chiếm toà n bộ. Từ năm 1887, Hà Nội trở thà nh thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp.
Năm 1940, thà nh phố bị phát xít Nhật xâm chiếm và đến năm 1945 Hà Nội được giải phóng và là nơi đặt các cơ quan của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ 1946 đến 1954, Hà Nội là chiến địa ác liệt giữa Việt Minh và quân đội Pháp. Sau khi được giải phóng và o ngà y 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội trở thà nh thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong Chiến tranh Việt Nam, các công trình giao thông của Hà Nội như cầu và đường tà u bị bom đạn phá hủy, tuy nhiên ngay lập tức được sửa chữa. Trong thời gian nà y Hà Nội được xưng tụng là "Thủ đô của phẩm giá con người". Hà Nội trở thà nh thủ đô của toà n Việt Nam sau ngà y Bắc Nam thống nhất 2 tháng 7 năm 1976.
Hà Nội còn có nhiửu các tên gọi không chính thức khác, chủ yếu xuất hiện trong văn thơ và dân gian: Trường An hay Trà ng An (lấy theo tên gọi của kinh đô của Trung Quốc thời kử³ nhà Hán và nhà Đường); Phượng Thà nh hay Phụng Thà nh (trong bà i phú của Nguyễn Giản Thanh); Long Thà nh, Long Biên, Kẻ Chợ (trong dân gian); Thượng Kinh, Kinh Kử³, Hà Thà nh, Hoà ng Diệu, ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên nà y để chỉ Hà Nội.