Là ng Việt trên hồ
Đi ngược ca nô của đoà n chúng tôi là những em bé đang bơi chải trên Biển Hồ. Khoảng và i chục thuyửn nhử đang lao nhanh ngược sóng. Hướng dẫn viên nói đó là các em người Việt đến lớp học. Và chỉ lát sau, ca nô vượt qua một con lạch dẫn ra mặt hồ thì tôi thấy có hai ngôi nhà nổi trên xà lan khá rộng rãi, anh ta vội chỉ tay nói: Đó là những lớp học!.
Một số em đang buộc thuyửn và o cột nhà rồi theo bậc thang bước lên lớp. Có em còn sợ ướt nên cất áo và o cặp, cứ thế mặc quần đùi, cởi trần, chèo thuyửn vội và ng đến trường. Sau khi đến nơi mới mặc áo dà i để và o lớp học. Mỗi thuyửn và o ba em đi chung, mặt đứa nà o cũng mướt mồ hôi. Chúng nhìn mọi người và tử ra không có gì lạ. Ai là m việc nấy. Chúng tôi đi với bao sự tò mò. Còn các em thì vội và ng đến lớp. Chúng đen nhẻm nhưng rất hoạt bát, vui vẻ như đi chợ vậy. Nhưng không hiểu sao trong lòng tôi bỗng thấy bùi ngùi khi được đọc những chữ tiếng Việt xen lẫn tiếng Campuchia lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 và khi nghe nói tất cả các em ở đây cũng như cha mẹ chúng sống chẳng có giấy tử gì cả và đã mấy đời theo con nước trôi.
Ca nô vượt khửi lạch và o mặt hồ mênh mang. Trước mặt chúng tôi hiện ra một dãy nhà nổi kết với nhau như dãy phố ở trên hồ vậy. Người ta gọi đó là Là ng Việt Nam. Tất cả những ngôi nhà đửu là m bằng những vật liệu nhẹ dễ nổi trên mặt nước. Đây đó là những cửa hà ng bán đủ mọi thứ như ở trên bử. Nà o giải khát, Karaoke, rồi đặc sản và hà ng tạp hóa tiêu dùng... Còn có cả cửa hà ng bán xăng dầu và gỗ nữa chứ... Tôi chưa hình dung ra thị trường ở trên hồ nà y sẽ tấp nập ra sao thì ca nô của đoà n chúng tôi sáp vô một cửa hà ng giải khát và bán đồ lưu niệm. Xem ra đây là một cửa hà ng nổi và o loại to và bử thế nhất ở tách hẳn phía ngoà i. Bà chủ nhà tên là Lân (chắc lấy tên chồng) nhanh nhẹn bước ra chà o hửi rồi cứ luôn mồm nói: Xin mời! Xin mời quý khách!.
Chúng tôi vừa bước lên thửm nhà thì thật ngạc nhiên khi thấy những em bé túa ra từ là ng Việt Nam hối hả bơi tới. Mỗi em ngồi trên một cái thuyửn thúng thi nhau gà o lên:
- Cháu là người Việt đây!
- Các cô các chú ơi! Cho cháu xin tiửn!.
- Cho cháu tiửn!.
Và rồi khi chúng tôi leo lên thửm cao xem bể nuôi cá sấu của bà chủ thì các em đã sáp vô được tới nơi. Các em còn bé lắm, chắc chỉ độ năm sáu tuổi gì đó. Nhử thó, đen quắt và đứa nà o mặt cũng đử ngầu dính nước hồ. Người nà y cho tiửn, người kia cho tiửn, toà n đồng ria lẻ. Dù chỉ khoảng và i nghìn đồng tiửn Việt cũng là m chúng sung sướng. Rồi tôi lại thấy một chú bé khoảng bốn tuổi chửn vửn bên cạnh ngoà i nhà nổi và đùa chơi vơi với cháu nội của bà chủ. Mà đứa cháu nội nà y mới tập đi. Chúng cứ trần truồng đùa vui chẳng sợ gì sông nước. Tôi chỉ biết ngồi thẫn thử nhìn chúng.
Bà Lân kể đã sang đây ở từ bé. Sinh con đẻ cái cả thảy gia đình bà có và i chục con cháu đửu sống ở trên hồ nà y và cũng đửu chẳng có giấy tử nà o bảo đảm. Khi hửi vử sự quản lý của chính quyửn thì bà nói: Họ không đuổi, nhưng cũng không cấp cho giấy phép cư trú. Cứ ở, cứ là m ăn. Không quậy phá là được. Tất cả tự do lênh đênh và tự lo thân, chẳng hử ai đoái hoà i.
Nhiửu gia đình mấy đời sinh sống trên mặt hồ
Nhiửu gia đình ở đây mấy đời và hà ng chục năm sinh sống trên mặt hồ. Buôn bán, đánh cá và chơi bạc, miễn sao ra tiửn để mua gạo mua thịt, ở đây bà còn giới thiệu có gia đình bạn thân thiết ở Đồng Tháp sang là ông Dương Văn Voi và bà Lễ Thị Tử, đửu là người gốc Việt sinh ra ở Battambang. Vợ chồng ông bà nà y có tới 9 người con. Con trai lớn đã có 5 cháu... Rồi cứ thế các cháu cộng lại gia đình ông Voi có và i tá người cả thảy. Vậy là trên góc hồ đa số các gia đình đửu có ba đến bốn thế hệ lênh đênh trôi nổi như vậy. Rất nhiửu nhà không có điện đà i, ti vi lẽ dĩ nhiên sách báo cà ng không. Còn chuyện học hà nh ư?. Trừ bọn trẻ đang học tiểu học còn người lớn ai học nhiửu lắm thì cũng dừng ở mức lớp 2 nhưng rất hiếm hoi.
Hướng dẫn viên kể thêm rằng, có một thời nhiửu gia đình mon men lên bử dựng lửu, dựng quán bán hà ng nhưng cũng chỉ được một thời gian, rồi lại bị cảnh sát xua xuống hồ khi ở đây người ta đang mở một con đường to để phục vụ khách du lịch. Và lẽ dĩ nhiên, Là ng Việt Nam cũng chính là một địa chỉ sinh hoạt và thị trường khá thu hút khách đến vì sự lạ lùng và hoang dại ở trên biển hồ.
Bất ngử đâu đó văng vẳng tiếng chuông nhà thử. Tôi ngạc nhiên nhìn vử phía xa, đó là một nhà thử thật sự trên hồ. Thì ra hôm nay là ngà y chủ nhật, những người theo đạo vẫn chèo thuyửn đi lễ và cầu nguyện. Ngôi nhà thử di động bằng gỗ rộng tới và i trăm mét vuông, được dựng trên những chiếc thùng phuy nhựa. Người chủ ca nô nói đó là nhà thử Ba Ria Ca Tơ Lich. à”ng ta còn kể cùng trên bè thùng phuy nà y người Việt mình còn dựng thêm một ngôi nhà dùng và o việc lớn cho là ng chà i như tổ chức đình đám mỗi khi nhà ai đó có việc, cần có sự chia sẻ của cộng đồng. Đang nói chuyện ông bất ngử như nín thở, rồi nghẹn ngà o nói: Nhưng có chuyện buồn của mọi gia đình trên Biển Hồ nà y là khi có người mất chẳng biết chôn cất ở đâu... à”ng ta thở dà i. Còn tôi lại cố ghìm hơi nén trong lồng ngực.
Và o xóm Cầu Sà i Gòn ở Phnompênh
Hai hôm sau, trở vử thủ đô Phnompênh, tôi mới hay người Việt mình còn có một khu dân cư sống ở ven sông Basac, một nhánh tách ra từ dòng Mê Kông, rồi chảy và o thà nh phố. Con cầu vượt sông có tên là Chba or Pau, nhưng vì cứ thẳng con đường qua cây cầu nà y là vử được tới TP Hồ Chí Minh, nên những người Việt sinh sống ở đây lâu năm đã gọi tên là Cầu Sà i Gòn, để cho đỡ nhớ quê hương mà thôi. Và , mỗi khi ai đến khu người Việt ở đây, cũng đửu nói đến xóm Cầu Sà i Gòn.
Theo lời hẹn với Thà nh, tên một người thanh niên quê ở Tây Ninh theo đúng hẹn đến khách sạn đưa tôi đi chơi xóm người Việt. Chúng tôi thuê xe ôm đến để đi dạo chơi nhưng quả là tối tăm và đầy bụi.
Đó là những con hẻm móc nối chữ thập như bà n cử chạy ra mặt sông. Tất cả đửu là những ngôi nhà mái tôn vách lá, vách nứa, tre pheo và thấp lè tè. Đặc biệt là rác xả thoải mái. Trẻ con chạy la lối bụi mù xóm. Nhiửu quán cóc đúng kiểu người Việt bán vặt. Một chị tên Hương giải thích vì sao nhà tối: Riết rồi quen, khi nà o sáng thì bật điện.
Hửi vử ti vi thì chị nói: Xem ké!.
Hửi vử nước chị nói tưng tửng: Chỉ và i chậu đủ tắm rửa, nấu ăn thôi.
Hửi vử quê. Chị bùi ngùi: Tân Châu (An Giang).
Trả lời rồi chị ứa nước mắt. Tôi đà nh quay đi.
Thà nh còn kể đa số người Việt ở xóm cầu nà y đửu phải thuê nhà . Bảng giá chủ nhà người Campuchia quy định rồi. Cứ mỗi buồng là 150.000 ria (khoảng 16m2 đủ cho 4 người, gồm cả ăn nghỉ, vệ sinh trọn gói).
Xóm nà y hình thà nh khoảng và i chục năm gần đây. Hiện có khoảng hơn 2.000 người tụ lại thà nh xóm. Và cũng chẳng gia đình nà o có hộ khẩu. Kẻ đến người đi tự do miễn sao đừng gây rối. Mà buồn cười nhất là anh Hồng kể: Ở đây là m ăn dễ ợt. Hổng thấy ông cán bộ thuế nà o đến.
Con chị cười xả láng nói: Tha hồ bán số đử. Chẳng có cảnh sát.
Một số người mon men và o thà nh phố bán dạo bằng xe hà ng hoặc buôn bán hoa quả còn chủ yếu bám lấy ngõ xóm Cầu Sà i Gòn để kiếm ăn. Riêng đà n ông thì chạy xe ôm là chính. Mà cũng lạ, ở Phnom Pênh rất ít taxi, nên cánh chạy xe ôm rất dễ kiếm tiửn. Nhưng nói thế mọi chuyện đâu có vậy, khi ai ai cũng vội vã, hối hả cạnh tranh lẫn nhau, bởi những mối là m ăn chẳng hử may mắn rơi và o tay ai. Thà nh kể ở đây chuyện thanh toán nhau theo kiểu xã hội đen xảy ra như cơm bữa, dân Việt mình thường bị chèn ép, lơ mơ là bị chém, hay bị đánh dằn mặt không nương tay.
Bất ngử một đám trẻ nhử chân đất chạy ùa ra từ một ngách nhử đâm xầm và o chúng tôi. Chúng la hét đuổi nhau. Tay trong tay đứa nà o cũng vung lên một thanh kiếm gỗ hay que nhọn để truy đuổi nhau. Chúng cười hồn nhiên, lao và o trò chơi bạo lực, đấu kiếm hay vật nhau và chẳng để tranh già nh điửu gì. Cái kẹo ư? Không! Một mẩu bánh mì ư? Cũng không. Miễn sao được vui cười với nhau. Tôi chợt hửi một ông già bên đường vử chuyện học hà nh của bọn trẻ, thì ông ta chỉ mím môi im lặng. Tôi nhìn đôi mắt người già như ẩn chứa bao điửu không thể dễ nói ra. Lát sau ông mới bật ra một câu: Học để là m gì? Mà ai dạy cho chúng?
Vậy là tôi bị chất vấn ngược lại. Đồng thời đó cũng là câu trả lời một cách cay đắng dội vử phía tôi. à”ng già nhìn theo chúng tôi vương vấn điửu gì đó, muốn nói ra mà không thể. Lòng tôi như có luồng gió lạnh trà n tới. Một nỗi buồn nặng trĩu, thật khó tả, bởi chẳng gì có thể buồn hơn, khi có tới và i vạn người Việt nghèo ở đây, lênh đênh trên Biển Hồ hay trên bử sông gần Phnom Pênh, đửu không có giấy tử tùy thân và không được lên bử sinh sống, chứ chưa nói là có một miếng đất cắm dùi để an ủi lúc đau yếu, vử già . Và thật cay đắng là m sao. Khi có tang, có những gia đình phải bó chiếu, treo người thân lên cây trên rừng sâu núi cao, phó mặc cho trời đất. Và ngay nếu gia đình nà o có chút tiửn cũng chỉ mua nổi miếng đất nhử chỗ trũng ven hồ để đắp mộ. Nếu chẳng may và o mùa nước lên, cữ tháng 5 đến tháng 10, hay mưa giông gió giật, mồ mả có thể bị vỡ ra trôi nổi trên hồ chẳng biết đấy là đâu mà tìm lại. Sông Basac chợt lộng gió. Hà ng ngà n lớp sóng cuộn lên, như muốn lật úp mọi thứ trên hồ. Tôi thấy ngực mình đau thắt.