Vử Lê Thái Tông, người đặt ra khoa thi Tiến sĩ, ông là vị vua thứ hai của triửu Hậu Lê, tên thật là Lê Nguyên Long, con thứ của vua Lê Thái Tổ, ở ngôi 9 năm thì mất đột ngột, thọ 20 tuổi. Tuy cầm quyửn trong thời gian không dà i, tuổi còn trẻ nhưng lại là người có tà i. Sách Đại Việt sử ký toà n thư viết: Vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình; bên trong ức chế quyửn thần, bên ngoà i đánh dẹp Di Địch. Trọng đạo sùng nho, mở khoa thi chọn hiửn sĩ; xử tù, xét án phần nhiửu tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tà i giửi biết nối giữ cơ đồ.
Khi viết vử khoa thi tiến sĩ đầu tiên, sách sử cũng ghi chép rất ngắn gọn: Nhâm Tuất, [Đại Bảo] năm thứ 3 [1442],... Tháng 3, tổ chức thi hội cho sĩ nhân trong nước. Cho bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Nhữ Đổ, Lương Như Hộc 3 người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Lại sai soạn văn bia, dựng bia ghi tên các tiến sĩ. Bia tiến sĩ bắt đầu có từ đây (Đại Việt sử ký toà n thư).
Như vậy là cùng với việc tổ chức khoa thi tiến sĩ đầu tiên, Lê Thái Tông đã cho viết văn bia và khắc trên đá tên tuổi những người đỗ đạt. Tuy nhiên việc nà y chưa thực hiện được vì sau đó không lâu vua bị cảm mất đột ngột, phải đến đời con ông là Lê Thánh Tông mới đưa và o hiện thực ý tưởng của cha mình và o năm Giáp Thìn (1484).
Lại nói vử khoa thi năm Nhâm Tuất (1442), chính sử ghi chép ngắn gọn nhưng các thư tịch đử cập đến khoa cử thì cho biết rõ hơn. Khoa thi năm ấy có tổng cộng 450 người dự thi, lấy đỗ 33 Tiến sĩ, xếp hạng theo Tam giáp: Đệ nhất giáp có ba học vị là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa; Đệ nhị giáp có học vị Hoà ng giáp và Đệ tam giáp gọi là Đồng tiến sĩ xuất thân.
Đứng đầu khoa thi và đầu Bảng đệ nhất là Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh là Trạng Nguyên (Nguyễn Trực); Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh là Bảng Nhãn (Nguyễn Như Đỗ), Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh là Thám Hoa (Lương Như Hộc).
Bảng hai, tức Bảng đệ nhị là : Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân là Hoà ng Giáp 7 vị đỗ, gồm có: Trần Văn Huy, Hoà ng Sằn Phu, Nguyễn Hộc, Vũ Lãm, Nguyễn Hữu Phu, Phạm Cư, Trần Bá Linh.
Bảng ba là bảng đệ tam là Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân có 24 vị gồm: Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Duy Tắc, Nguyễn Cư Đạo, Phan Viên, Nguyễn Đạt, Bùi Hựu, Phạm Như Trung, Trần Đương, Ngô Thế Dụ, Khúc Hữu Thà nh, Lê Lâm, Nguyễn Thiện Tích, Nguyễn Nghị, Trịnh Thiết Trường, Trần Bà n, Nguyễn Quốc Kiệt, Nguyễn Mử¹, Trịnh Khắc Tuy, Nguyễn Địch, Bùi Lôi Phủ, Lê Cầu, Lê Hiển, Nguyễn Nguyên Chẩn.
Đối với hệ thống quan trường đầy đủ gồm có:
- Để điệu (Chánh chủ khảo)
- Giám thí (Phó chủ khảo)
- Tuần xước (đứng đầu các quan giám thị)
- Thu quyển (thu bà i thi)
- Di phong (dọc phách)
- Đẳng lục (sao bà i thi để chấm ở bản sao)
- Đối độc (đọc đối chiếu giữa bà i thi và bản sao)
- Độc quyển (chấm bà i)
Sĩ tử là m bà i thi (Tranh minh họa)
Trong nội dung tấm văn bia khoa thi năm Nhâm Tuất (1442) cho biết cụ thể thông tin vử khoa thi nà y, có đoạn viết như sau: Thái Tông Văn hoà ng đế nối giữ nghiệp lớn, là m rạng rỡ ông cha, xem xét nhân văn, giáo hóa thiên hạ. Lấy việc trọng đạo Nho là m việc hà ng đầu, coi kén chọn anh tà i tôn trọng hiửn sĩ là m mưu lược tốt. Nghĩ việc đặt khoa thi, kén kẻ sĩ là chính sự cần là m trước nhất. Tô điểm cơ đồ, khôi phục mở mang trị hóa chính là ở đây; mà sửa sang chính sự, sắp đặt công việc, giáo hóa dân phong mử¹ tục cũng là ở đây, các bậc đế vương đời xưa là m nên trị bình đời nà o cũng theo thế.
Thánh Tổ Cao hoà ng đế đã định quy mô, nhưng chưa kịp thi hà nh. Là m rạng rỡ đời trước, khuyến khích đời sau, nay chính là lúc là m việc nà y. Bèn và o năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) rộng mở xuân vi thi Hội cho các sĩ nhân trong nước. Bấy giử số dự thi đông đến 450 người. Qua bốn trường, lấy trúng cách được 33 người. Quan Hữu ti chuyên trách kê tên dâng lên, Thánh thượng sai chọn ngà y ban cho và o sân rồng ứng đối2. Lúc ấy Đử điệu là Thượng thư Tả Bộc xạ Lê Văn Linh, Giám thí là Ngự sử đà i Thị Ngự sử Triệu Thái, cùng các quan Tuần xước, Thu quyển, Di phong, Đằng lục, Đối độc ai nấy đửu kính cẩn thi hà nh công việc. Ngà y mồng 2 tháng 2, Thánh thượng ra ngự ở điện Hội Anh, đích thân ra đử thi văn sách. Ngà y hôm sau các viên Độc quyển là Hà n lâm viện Thừa chỉ Học sĩ kiêm Trung thư Quốc sử sự Nguyễn Trãi, Trung thư sảnh Trung thư Thị lang Nguyễn Mộng Tuân, Nội mật viện Tri viện sự Trình Thuấn Du, Quốc tử giám Bác sĩ Nguyễn Tử Tấn nâng quyển tiến đọc. Hoà ng thượng sáng suốt ngự lãm, xét định thứ bậc cao thấp. Ban cho Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đổ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa lang; bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ Tiến sĩ, bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ Phụ bảng. Đó là gọi theo danh hiệu đã có từ đời trước.
Ngà y mồng 3 tháng 3, xướng danh treo bảng, để tử cho kẻ sĩ thấy sự vẻ vang. à‚n ban tước trật để nêu cao nổi bật với dân thường, ban áo mũ cân đai để đẹp cách ăn mặc, cho dự yến vườn Quử³nh 5 để tử ơn huệ, cấp ngựa vử quê để rõ lòng đặc biệt mến yêu. Kẻ sĩ và dân chúng Trường An đâu đâu cũng tụ tập đến xem, đửu ca ngợi Thánh thượng chuộng Nho xưa nay hiếm thấy.
Ngà y mồng 4, bọn Trạng nguyên Nguyễn Trực lạy chà o dâng biểu tạ ơn. Ngà y mồng 9, lại và o bệ kiến cáo từ, xin được vinh quy. Đó là khoa thi đầu tiên đời thánh triửu được ơn vinh long trọng, đến nay kẻ sĩ vẫn còn tấm tắc ngợi ca. Từ đó vử sau thánh nối thần truyửn, đửu tuân theo lệ cũ.
Có thể nói việc xây dựng, tổ chức kử³ thi tiến sĩ của Lê Thái Tông đã đánh dấu bước ổn định và cơ bản hoà n chỉnh của nửn khoa cử Nho học Việt Nam, tạo tiửn đử quan trọng cho các vương triửu sau đó lấy đây là khuôn mẫu trong tổ chức thi cử tuyển chọn nhân tà i. Chính vì thế trên một số văn bia tiến sĩ dựng ở Văn Miếu “ Quốc Tử Giám dựng sau nà y đửu có dòng nhắc đến dấu ấn đặc biệt ấy cũng như tà i năng của Lê Thái Tông, thí dụ như: Thái Tông Chiêu Huệ hoà ng đế thay trời hà nh đạo, là m hiển rạng công đức của Cao hoà ng, kính cẩn sáng suốt văn võ, tinh anh mẫn tiệp, nhân ái hiửn triết, giửi võ giửi văn, giữ khuôn phép cũ. Niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), bắt đầu mở rộng Nho khoa, anh tà i được chọn tuyển vinh thăng, kỷ cương được chấn chỉnh, là m rạng rỡ đời trước, để lại khuôn mẫu cho đời sau, chính từ đó mà cơ đồ được khôi phục mở mang (Bia tiến sĩ khoa Mậu Thìn - 1448), hay câu: Thái Tông Văn hoà ng đế nối tiếp mở mang quy mô, tập hợp anh hùng, đặt khoa mục để chọn người hiửn tà i, tiến cử bậc chân Nho để giúp đời thịnh trị, sự thà nh công mới rực rỡ là m sao (Bia tiến sĩ khoa Qúy Mùi - 1463); Thái Tông Văn hoà ng đế sáng suốt kế thừa tiên đế, chấn chỉnh Nho phong, khuyến khích hiửn tà i cả nước, kẻ sĩ họp lại như mây, lại xem xét điển chế của tiên vương để đổi mới khoa mục. Bắt đầu từ năm Nhâm Tuất mở khoa thi, hiửn tà i lọt và o vòng trọng dụng, cổ động chí khí anh hà o trong bốn bể, mở mang vận hội văn chương thịnh đạt muôn vạn năm, há chẳng phải gọi là mở đường giúp người sau, không để có chỗ thiếu sót đó chăng? (Bia tiến sĩ khoa Bính Tuất “ 1466)...