- à”ng có thể cho biết ý kiến của mình vử việc đưa hầu đồng để xin UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ?
à tưởng đưa hầu đồng và o để xin UNESCO thì điửu đó riêng tôi nghĩ phải cần thận rất nhiửu vì :
Thứ nhất: Lên đồng đã bị biến tướng khửi bản chất của nó. Mà nếu biến tướng khửi bản chất của nó chỉ còn một hình thức nhảy múa trước bà n thử thánh mẫu, cái tính chất thiêng liêng bị giải thể hay nói đúng hơn "thánh một cân trần một yến" thì theo tôi đã bị mất gốc. Bởi nó không còn là bản chất mà chỉ còn là hình thức, hình thức gắn với nhảy múa như vậy thì đơn điệu. Hình thức múa ấy là m mất cái thiêng thì không thể thay thế bằng hình thức múa khác được.
Thứ hai: Nếu đưa hình ảnh lên đồng cổ truyửn thì cũng chưa đủ mà phải đưa cùng với đạo thử mẫu. Muốn đảm bảo được chất thiêng của lên đồng phải có hệ thống thần linh. Nói đến lên đồng phải nói đến đạo thử mẫu.
Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biửn
- Xin ôngcho biết vử đạo thử Mẫu ở Việt Nam?
Ở Việt Nam thì thử mẫu như trục xương sống trong các tín ngườ¡ng dân gian, còn trong các tôn giáo thì đạo phật là xương sống của các tôn giáo. Sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau thì ảnh hưởng của đạo mẫu sang đạo phật mạnh hơn từ các tôn giáo khác sang đạo mẫu. Cho nên chính cái tượng phật giáo của người Việt Nam một là chuyển hóa thà nh hệ thống nữ hần như là hệ thống quan âm, hai là nam giới chủ yếu phảng phất khuôn mặt của nữ nhân.
Đạo nà o không tôn trọng nữ thần thì người Việt không theo. Cho nên chỉ hai đạo là người dân quan tâm tới là đạo phật nhử có bà quan âm, đạo gia tô với bà Maria. Người Việt không quan tâm đến đạo nho, Đạo nho chỉ là áp đặt với một số nghĩa vụ và luân lí trong cuộc đời. Bản thân người Việt Nam chú ý đến nhiửu yếu tố phù thủy cho nên đạo lão được hội nhập với đạo giáo dân gian Việt Nam mà nó cùng tồn tại chứ không phải nó được người Việt Nam quan tâm đến hệ triết học và cách hà nh lễ. Người Việt chỉ quan tâm đến nữ thần. Cho nên nói đến lên đồng phải nói đến đạo mẫu người Việt là cư dân nông nghiệp nên đã quan tâm đến mẹ thì quan tâm đến cha. Họ chuyển hóa một số vị anh hùng dân tộc thà nh tối thường thần, là hóa thân của ngọc hoà ng thượng đế, cao hơn cả vua đó là Trần Hưng Đạo.
Ở đửn thử Trần Hưng Đạo thì ông ngồi ở chính giữa hai bên có hai đửn nam tà o bắc đẩu. Hiện tượng nà y cho ta thấy Trần Hưng Đạo là hóa thân của ngọc hoà ng thượng đế. Người Việt định ra cha và mẹ nhưng mẹ quan trọng hơn. Phải quan tâm đến đạo thử mẫu vì nó gắn với bước đi của dân tộc. Khi người Việt ở trên rừng thì quan tâm đến bà chúa rừng., Khi người Việt theo sông Hồng lùi xuống thì tiếp cận với ruộng đất phát triển nông nghiệp. Giữa châu thổ cao và châu thổ thấp bắt đầu tiếp cận với Ấn Độ giáo và phật giáo. Họ còn bị người phương Bắc xâm lược, họ chịu ít nhất ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa thông qua Ấn Độ giáo mà chúng ta gọi là Bà lamon giáo, phật giáo và ít nhiửu tư duy nho giáo.
Từ các vị thần mưa ấy được chuyển thà nh hệ phật Tứ Pháp. Bắt đầu sau Công nguyên, khi lùi khai phá đồng bằng thấp thì các thần linh không chỉ còn cầu mưa mà các thần linh mở rộng trời - rừng -nước và đất mới đủ sức cà y cấy. Ở bên cạnh nơi cư trú thì rừng nhử như nghĩa trang, nơi người ta lấy cây thuốc, lấy củ tránh lúc giáp hạt. Từ đó nảy sinh đạo mẫu tứ phủ mà thượng thiên là nguồn sinh lực vô biên, bà Mẫu Thoải cầu cho mưa thuận gió hòa, bà mẫu địa cầu cho đất đai ngà y một được một khai phá rộng rãi. Ba bà trở thà nh tam tòa. Còn bà Thượng Ngà n là nơi cư ngụ của các đời đã qua. Nó có tính nhân đạo và thực tế cao như thế. Và o thế kỉ 16 khi nửn kinh tế thương mại phát triển, lưu chuyển nhiửu không thể đem cả một bà n thử to lớn đi thì họ đem một vị.
Trong đạo phật thì bà Quan à‚m là hiện thân của tất cả. Trong đạo thử mẫu, họ nảy sinh sáng tạo ra bà Liễu Hạnh. Từ những quá trình phát triển ấy, đương nhiên đạo thử mẫu phải có một hệ thống tín ngườ¡ng hà nh lễ đi theo. Một trong những hiện tượng nổi bật nhất là lên đồng hầu bóng. Vậy thì lên đồng - hầu bóng người ta còn nhìn thấy ở đâu ? Người ta còn nhìn thấy hiện tượng xuất thần cá thể để cho một vị thần thánh thiện nà o đó nhập vử biểu hiện sự tồn tại của mình đối với chúng sinh hay ít nhất đối với tín đồ. Nó vừa có hiện tượng xuất thần vừa có hiện tượng nhập thần, hiện tượng đó là bóng dáng mử tử ít nhiửu gắn với Saman giáo.
Cái xuất và nhập thần ở trong một người mà nay gọi là con đồng, thì chính con người đó vượt qua được những gì của cái thực tại nà y chi phối đến nó trong kiếp sống thường nhật. Bằng tư duy xuất thần, hà nh động vượt qua được đó nhiửu khi rất dữ dội như xuyên đinh qua má, thắt cổ cho đử bừng mặt. Các hiện tượng ấy nà y nay không còn. Bắt đầu sang thế kỉ 16, hầu đồng đã vượt qua các không gian của nó là nông thôn nên mất tính chất hồn nhiên và mất cả những bản chất gốc để và o đô thị với tầng lớp thương nhân mang tính chất thực dụng.
Ở thương nhân thúc đẩy lấy con người là m trọng, Thần linh phải vì con người và được cầu viện tới và rõ rà ng tính chất xuất và nhập thần vử đến đô thị bị hạn chế đi. Cho nên nó thúc đẩy đồ mã và những gì khoe mẽ nhiửu, nó đi tìm oai phong giả tạo trong ảo tưởng, nhưng ít nhất như thế còn có thể chấp nhận được vì nó chịu sự chi phối của lịch sử. Thời ấy thương nhân đã là m tha hóa đạo đức và nhiửu người lên đồng đã đi quá trớn.
- Theo ông, bản chất của hiện tượng lên đồng có ý nghĩa gì?
Nếu đi và o bản chất lên đồng thì thứ nhất nó trở vử với tâm hồn trẻ thơ. Chỉ có trong sáng như thế thì con người mới tiếp cận được thần linh, mới nghe thấy tiếng thì thầm vũ trụ xa xăm. Đồng cũng là đẩy linh hồn ra khửi xác thân cho linh hồn vũ trụ nhập vử. Đồng còn có nghĩa là thể thao tinh thần. Ví dụ khi đang đau ốm khi lên đồng thì sau đó khửe mạnh cả vử tinh thần và thể xác. Cụ Trấn Hưng ở Hải phòng đã được chúng tôi mời lên để nghiên cứu, chân cụ đi tập tênh và sau khi lên đồng cụ rất khửe.
Lên đồng còn là m cân bằng lại tâm hồn. Khi lên đồng người ta cảm giác đồng nhất với thần linh và được mọi người kính nể. Lúc đó người đà n bà cảm giác oai phong và bồng bửnh trong ảo ảnh. Chỉ cần một và i phút thăng hoa ấy đủ để cân bằng với những bất ưng thường nhật. Điửu đó góp phần cho người ta vui sống. Thêm và o đó tín ngườ¡ng dân gian nà y rất sòng phẳng với những người có công dựng nước và giữa nước.
Trong đạo thử mẫu, các giá đồng quan tâm đến tất cả những người có công dựng nước và giữ nước, có công dạy dân cà y cấy, giải quyết đói no của người lao động cho nên người ta đưa và o trong hệ thống ông hoà ng, bà chúa toà n là những người có công. Ví dụ hệ ông Hoà ng có ông Hoà ng Hai kéo dân đi khai hoang một nửa đất nước Việt Nam nà y, đó là miửn Nam. Người Việt không phân định người đa số và thiểu số, Trần Lựu là người Nùng nhưng có công với dân nên dân thử. Các chầu bà thì là những người dạy dân cà y cấy và các nghử phụ nhưng vì lí do gì ít ghi tên. Có lẽ chịu ảnh hưởng từ nho giáo. Chính các giá đồng vử các vị nà y mà họ có một hình thức diễn xướng để giáo dục truyửn thống cho người dân đừng quên công lao của họ. Giử thì sao, đồng tỉnh nhiểu hơn đồng mê tức là xuất thần giả vở chỉ mặc quần áo đẹp lên nhảy múa khoe mẽ, bị giải thiêng và không còn bản chất.
Một địa điểm để lên đồng
- Vậy theo ý kiến của ông thì chúng ta cần là m gì để hoà n thiện hồ sơ trình lên UNESCO?
Trước khi là m hồ sơ xin UNESCO cần có các điửu kiện sau: Thứ nhất nhận thức của các nhà nghiên cứu tuy chưa thống nhất nhưng phải gần gũi nhau hơn và thấy được những bản chất rõ rệt hơn. Thứ hai hầu đồng phải đi cùng bệ đỡ thiêng liêng, ít nhất là các thần linh liên quan, phải nghiên cứu quá trình hình thà nh phát triển và gắn bó với lịch sử. Thứ ba, phải đi tìm được cái lên đồng mà chính tôi đã từng chứng kiến các hiện tượng lên đồng dân dã tự phát. Chỉ có cái đó mới thấy rõ các bản chất của hầu đồng và được các vị bác học của UNESCO chấp nhận bản chất ấy chứ không phải là thứ hầu đồng mặc quần áo đẹp nhảy múa để khoe mẽ với thế gian.
Xin cảm ơn Giáo sư vử cuộc trò chuyện nà y!