Bìa sách Đi dọc Hà Nội
Tháp Rùa xưa với tượng Nữ thần Tự Do trên nóc thời Pháp thuộc - Ảnh: Tư liệu
Tư liệu được cho là cổ nhất tính đến thời điểm nà y vử tháp Rùa là của Paul Bourde, phóng viên thường trú báo Le Temps tại Hà Nội. Trong cuốn Từ Paris đến Bắc Kử³ (De Paris au Tonkin - Paris, 1885), Paul Bourde mô tả tháp Rùa như sau: Ở đằng xa trên một hòn đảo có một cái chùa khác mang hình tháp, một công trình kiến trúc ba tầng của chủ hiệu bánh người Hoa. Cuốn Những ngôi chùa Hà Nội (Les pagodes de Hanoi - xuất bản năm 1887) của Gustave Dumoutier (1850-1904) là tư liệu thứ hai vử tháp Rùa. Tác giả viết: Đó là một công trình bé nhử có nhiửu tầng, các vòm cửa hình cánh cung nhọn, công trình nà y mới có khoảng chục năm nay. Nó được xây dựng trên vị trí một ngôi đửn nhử trước đó thử thần hồ. Bên trong, trên tường sơn hai chữ Vinh-Bao, là tên của viên quan đã xây công trình nà y. à”ng ta trước đây ba năm là m Tri phủ phủ Thường Tín rồi vử là m Thương biện phủ Hoà i Đức, sau dính và o một vụ chính trị nên năm 1886 bị cách chức và quản thúc ở Hà Nội. Trên đỉnh công trình, một bên có chữ Vong-dinh và bên kia chữ Qui-son thap. Tư liệu thứ ba là một tấm bản đồ vử sông hồ Hà Nội, bắt đầu vẽ từ tháng 12.1884, hoà n thà nh và o tháng 5.1885, không ghi ai vẽ, ngay sát tháp Rùa họ chú thích tháp Ba Kim bằng chữ Pháp.
Trong cuốn Ở Bắc Kử³: ghi chép và kỷ niệm (Au Tonkin-notes et souvenirs - Hà Nội, 1925) của Bonnal - là công sứ đầu tiên ở Hà Nội từ năm 1883 đến năm 1885, có đoạn: Một ngôi chùa hình bát giác không có phong cách và cũng không có giá trị đã được xây dựng cách đây và i năm bởi một người lĩnh trưng thu thuế đánh cá tên là Nguyen Huu Kiem, thường gọi là Ba Ho Kiem. Ngôi chùa xây trên địa điểm của một ngôi đửn nhử cũ thử vị thần hồ, chùa có tên Qui son thap, đó là tư liệu thứ tư. Tư liệu thứ năm là cuốn Bắc Kử³ xưa (Le vieux Tonkin) gồm hai tập, tập thứ nhất in ở Sà i Gòn năm 1935 và tập thứ hai in ở Hà Nội năm 1941. Cuốn sách nà y do Claude Bourrin tập hợp các bà i báo viết vử Hà Nội từ năm 1884 đến 1894. Claude Bourrin là nhân viên thuế ở Bắc Kử³ từng sống và là m việc ở Hà Nội từ năm 1898, phần vử tháp Rùa, ông viết: Tháp Rùa chính tên là Qui son thap xây khoảng năm 1877. Theo G.Dumoutier thì do một viên quan tên là Vinh-Bao đứng xây. Theo Bonnal thì người xây là Ba Ho Kiem. Công trình nà y thay cho một ngôi miếu nhử thử thần hồ. Vinh-Bao và Ba Ho Kiem chỉ là một người vì Ba Ho Kiem (đúng ra là Nguyen Huu Kim) cũng là một viên quan.
Vử tư liệu bằng chữ Việt viết có đầu có cuối nằm trong hai cuốn sách là Cổ tích và thắng cảnh (NXB Văn hóa, H.1959) của Doãn Kế Thiện, Hồ Hoà n Kiếm và đửn Ngọc Sơn (NXB Trẻ, năm 2003) của Nguyễn Vinh Phúc. Doãn Kế Thiện (1891-1965) là nhà báo, dịch giả chữ Hán, người nghiên cứu Hà Nội và là nhà Nho hoạt động cách mạng. Vử tháp Rùa, cụ viết: Gò Rùa là nơi chúa Trịnh dựng Tả Vọng đình để là m nơi nghỉ mát trong mùa hè. Năm 1884, một tên tay sai của thực dân Pháp là Bá Kim hay Thương Kim tin thuyết phong thủy nói gò nà y là kiểu đất vạn đại công khanh để được hà i cốt tiửn nhân và o đó con cháu sẽ muôn đời nối nhau là m quan cao chức trọng... Y dùng riêng một số tay chân là m thợ nử dự định ngay đêm khai móng chử đến khuya tối giời, đem hà i cốt cha mẹ để sẵn trong hai cái quách nhử ngầm chôn xuống giữa gò, rồi lấp kín định hôm sau sẽ xây thà nh nửn tháp cao. Việc y là m rất kín đáo, tưởng không ai biết... nhưng một việc xảy ra không ngử. Sáng hôm sau, y hớn hở cùng người nhà và thợ nử vừa ra tới gò thì bỗng kêu trời và ngã ra, hai cái quách gỗ bị quật lên từ lúc nà o chỉ còn quách không, hai bộ hà i cốt đửu không thấy đâu nữa. Không thực hiện được âm mưu, nhưng đã hứa với mọi người là xây tháp, không thể bử được y đà nh phải cắn răng tiếp tục là m cho xong việc. Riêng thực dân Pháp thì thưởng công cho y bằng cách gọi tên tháp ấy là tháp Bá Kim....
Phần tháp Rùa trong Hồ Hoà n Kiếm và đửn Ngọc Sơn của Nguyễn Vinh Phúc khá đầy đủ, từ kiến trúc đến chiửu dà i, chiửu rộng, chiửu cao. à”ng Nguyễn Vinh Phúc (1927-2012) là nhà giáo, viết nhiửu sách vử Hà Nội và người ta gọi ông là nhà Hà Nội học. à”ng Phúc đưa ra nhận định khi cho rằng Bonnal viết sai chữ Kim thà nh chữ Kiem và Nguyễn Hữu Kim chứ không phải Nguyen Huu Kiem. à”ng kể đã được xem gia phả của chi trưởng và gia phả của chi thứ năm dòng họ Nguyễn Hữu ở là ng Cựu Lâu (nay là khu vực Trà ng Tiửn, Hà ng Khay) nên có thêm một số chi tiết mới: Bá Kim tên thật là Nguyễn Hữu Kim (1832-1901), có tên khác là Liên (Nguyễn Hữu Liên), hiệu Chu ài. Bá Kim là hà o mục là ng Cựu Lâu được hà m Bá hộ, ông có một cửa hà ng bán đồ khảm trai tên là Vĩnh Bảo...
Trong tư liệu của người Pháp và Doãn Kế Thiện, không có một chữ nà o đử cập đến chỗ ở, quê quán của Ba Ho Kiem, Vinh-Bao, Nguyen Huu Kiem hay Bá Kim, Thương Kim. Còn theo những trang viết của Nguyễn Vinh Phúc thì Ba Ho Kiem, Nguyen Huu Kiem, Vinh-Bao chỉ là một người và người đó tên là Nguyễn Hữu Kim, gọi theo chức quan là Bá Hộ Kim người là ng Cựu Lâu.
Gần đây, ngà y 17.6.2012, anh Đà m Quang Minh, hiện sống cùng gia đình ở Pháp cho biết, nhà anh nhiửu đời sống tại Hà Nội. Bên Pháp gia đình anh quen thân một gia đình trước 1954 sống ở Hà Nội, ông bà nà y năm nay ngót nghét 90 tuổi. Trong những lần chuyện trò vử Hà Nội, bà kể đi kể lại chuyện tổ phụ nhà bà đã xây tháp Rùa và không liên quan đến Bá Hộ Kim. Tôi sẽ tìm cách liên lạc để tìm hiểu độ tin cậy của thông tin, và phải chăng, bước đầu lại hé lộ thêm một chứng cứ nữa vử người xây tháp Rùa?, anh Minh nói.