Tại chương IV, khái niệm bảo vệ Tổ quốc không chỉ gắn kết hữu cơ giữa hai phương diện quốc phòng và an ninh mà còn khẳng định rõ: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ độc lập, chủ quyửn, thống nhất và toà n vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toà n xã hội mà còn là bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quân đội nhân dân Việt Nam - Lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Ảnh: Bá Hoạt |
Trách nhiệm của toà n dân
PGS.TS Trần Đình Nhã - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và an ninh của Quốc hội khẳng định, với quy định trên, rõ rà ng bảo vệ Tổ quốc không chỉ giới hạn ở việc bảo vệ chủ quyửn lãnh thổ mà còn là bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước - điửu mà Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện. Đây không phải sửa đổi lớn nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khẳng định hệ thống quan điểm của Đảng ta vử quốc phòng toà n dân, an ninh nhân dân; vị trí, vai trò của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoà n kết toà n dân luôn là chủ thể, động lực quyết định vận mệnh của đất nước.
Tiếp đó, Hiến pháp xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc củng cố, tăng cường nửn quốc phòng toà n dân và an ninh nhân dân, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; trong đó, quân đội nhân dân là m nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; công an nhân dân là m nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toà n xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời bổ sung mục tiêu "góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới". Đây cũng là vấn đử mới so với Hiến pháp năm 1992, thể hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta cũng như tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và Điửu ước quốc tế mà Việt Nam là thà nh viên, khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thà nh viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đây còn là cơ sở để lực lượng vũ trang nhân dân ta triển khai việc tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Ngoà i những nội dung đã được thể hiện tập trung tại Chương IV vử bảo vệ Tổ quốc, nhiửu điửu khoản của Hiến pháp luôn khẳng định, Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi công dân phải thực hiện bình đẳng vử nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự là trung tâm. Khoản 2, Điửu 44 của bản Hiến pháp mới nhấn mạnh: "Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất".
Cần cụ thể hóa nhiửu luật
Nghị quyết số 64/2013/QH13 vử một số điểm thi hà nh Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã xác định rõ: Các luật, pháp lệnh và văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hà nh trước ngà y Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có hiệu lực phải được rà soát lại để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hà nh mới phù hợp với Hiến pháp sửa đổi năm 2013.
Vử vấn đử nà y, luật sư Nguyễn Ngọc Vượng (Đoà n Luật sư Hà Nội) cho rằng, để tiếp tục thể chế hóa các chế định của Hiến pháp liên quan nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải là m rõ các nội dung nà y ngay từ các luật tổ chức, cụ thể như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ... Bởi, trong các thiết chế nà y đửu có những quy định cụ thể vử nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của từng cơ quan từ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chính quyửn địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, công việc hoà n thiện hệ thống pháp luật trong thời gian tới liên quan nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cần tập trung theo hướng hoà n thiện các quy định pháp luật để thúc đẩy việc xây dựng lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc; gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh; kết hợp hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại... Cũng cần nghiên cứu để xây dựng chính sách giải quyết vấn đử công dân tham gia phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân và các loại hình hoạt động khác để bảo đảm cho công dân thực hiện được quyửn và nghĩa vụ bình đẳng của mình trước nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng và cao quý.
Ở góc nhìn khác, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và an ninh của Quốc hội Hồ Trọng Ngũ cho rằng, nhiệm vụ của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh (khoản 5, Điửu 88); thẩm quyửn của Hội đồng Quốc phòng, an ninh (Điửu 89) và những vấn đử pháp lý liên quan tổ chức, quyửn năng của các bộ phận trong lực lượng vũ trang hoạt động trong các lĩnh vực hà nh pháp, tư pháp nhất là trong tư pháp hình sự... cần được ưu tiên cụ thể hóa hà ng đầu. Vì đây là những vị trí đi đầu trong nghiên cứu, điửu phối công tác tổ chức, củng cố và tăng cường nửn quốc phòng toà n dân và an ninh nhân dân.
Được biết, vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước đang được khẩn trương cụ thể hóa trong 2 dự án luật: Công an nhân dân sửa đổi, Sĩ quan quân đội nhân dân sửa đổi. Trong đó, nhiửu ý kiến cho rằng vai trò của Chủ tịch nước cần được hiểu theo nghĩa Tổng Tư lệnh tối cao. Tức là Chủ tịch nước có quyửn bổ nhiệm các chức vụ đặc biệt quan trọng như Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng, Đô đốc vì đây là các chức danh chỉ huy quân đội; kèm theo đó là phong, giáng hà m cấp tướng. Còn việc bổ nhiệm các chức danh nhà nước, kể cả thứ trưởng công an, quân đội thì vẫn thuộc phạm vi quản lý nhà nước. Là m theo cách nà y sẽ không chồng chéo. Tùy vị trí, Thủ tướng Chính phủ sẽ trực tiếp bổ nhiệm hoặc do Bộ trưởng Công an, Bộ trưởng Quốc phòng quyết định.