Các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam cho biết Luy Lâu (hay Liên Lâu) là trị sở của Thái thú Sử¹ Nhiếp ở Giao Châu, đóng tại là ng Lũng Khê, Phủ Thuận Thà nh, nay thuộc các xã Thanh Khương, Trí Quả, Gia Đông thuộc huyện Thuận Thà nh, tỉnh Bắc Ninh. Ở đây vẫn còn di tích thà nh, đửn thử và Lăng mộ Sử¹ Nhiếp.
Theo sự chỉ dẫn trên, từ nhiửu thập kỷ nay, nhiửu nhà khoa học đã để tâm tìm hiểu Luy Lâu. Đặc biệt từ đầu những năm 1970 trở lại đây, giới sử học và khảo cổ học Việt Nam đã tiến hà nh nhiửu đợt nghiên cứu, khảo sát, khai quật khảo cổ học tại Luy Lâu. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, Luy Lâu là khu di tích khảo cổ học thời Bắc thuộc có quy mô rộng lớn nhất (hà ng mấy chục vạn mét vuông) với số lượng di tích phong phú nhất ở Việt Nam hiện nay.
Tổng thể các nguồn tà i liệu và di tích ở Luy Lâu đã cho phép tìm hiểu lịch sử hình thà nh và phát triển của đô thị Luy Lâu - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa cổ xưa có quy mô lớn nhất của Việt Nam thời Bắc thuộc.
Chùa Dâu nằm trong trung tâm Phật giáo Luy Lâu xưa. (Nguồn: Internet)
Trước hết, Luy Lâu có nhiửu lợi thế vử vị trí cảnh quan. Đây là vùng đất cao, thoáng, bao quát được cả khu vực rộng lớn của đồng bằng châu thổ, đồng thời nằm ở vị trí chiến lược vử nhiửu mặt. Cảnh quan Luy Lâu xưa gắn liửn với sông nước, thông thương với Biển Đông nhưng vẫn cao thoáng, phong quang hơn các vùng xung quanh, nhất là so với miửn Hà Nội ở những thế kỷ trước-sau Công nguyên. Đặc biệt, từ rất sớm, Luy Lâu là nơi gặp gỡ, giao hội của các luồng giao thông thủy, bộ quan trọng. Với lợi thế địa-cảnh quan đó, Luy Lâu đã sớm trở thà nh trung tâm kinh tế, văn hóa của người Việt ở những thế kỷ trước Công nguyên. Các di tích khảo cổ học ở Luy Lâu và các vùng xung quanh là những chứng tích vật chất khẳng định điửu đó.
Đặc biệt mới đây đã tìm thấy di tích khuôn đúc trống đồng bằng đất ở trong Thà nh Luy Lâu. Đây là di tích khuôn đúc trống đồng Đông Sơn lần đầu tiên tìm thấy ở Việt Nam, khẳng định Luy Lâu không chỉ là địa bà n cư trú mà còn là trung tâm kinh tế, văn hóa của người Việt ở đồng bằng châu thổ từ những thế kỷ trước Công nguyên. Trong khu vực Luy Lâu, cùng các chứng tích khảo cổ học là hà ng loạt các di tích như lăng mộ Kinh Dương Vương, đửn thử Lạc Long Quân và à‚u Cơ, đửn thử các tướng thời Hùng Vương, Hai Bà Trưng. Rồi các tà i liệu, địa danh, truyửn thuyết, tín ngườ¡ng thử các tướng thử Thạch Quang, Tứ Pháp, lễ hội Dâu với các trò diễn tắm Phật, cướp nước... đã thể hiện cuộc sống và sinh hoạt văn hóa tâm linh rất điển hình của cư dân nông nghiệp vùng Dâu ở những thế kỷ trước Công nguyên.
Với các nguồn tà i liệu phong phú kể trên, đã cho phép các nhà nghiên cứu xác định: Luy Lâu là tên phiên âm cổ của Dâu, một trong những bộ lạc lớn và quan trọng, hợp thà nh nước Văn Lang-à‚u Lạc. Bộ lạc Dâu với trung tâm là Đửn Bà Dâu, sau là trị sở Quận Giao Chỉ, là bộ lạc vùng đất bãi Sông Dâu, Sông Đuống, vốn là m nông nghiệp, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải. Và Dâu trước thời Hán xâm lược có thể đã là trung tâm kinh tế, trung tâm buôn bán như một thị trấn. Luy Lâu được coi là Cái ổ từ đó người Việt trà n ra chiếm lĩnh miửn trung châu...
Trung tâm kinh tế-văn hóa Luy Lâu những thế kỷ trước Công nguyên phản ánh xu thế tiến xuống đồng bằng châu thổ và chiếm lĩnh vùng ven biển phía Đông của người Việt cổ. Trong xu thế đó, phong kiến Trung Quốc đã nhận thấy Luy Lâu giữ vị trí ưu thế và thuận lợi vử nhiửu mặt để đặt trị sở thống trị, đồng thời chiếm giữ, khống chế con đường hà ng hải quốc tế để tiến xuống chinh phục các nước phương Nam. Từ một trung tâm kinh tế-văn hóa của người Việt, Dâu (tức Luy Lâu) đã nhanh chóng trở thà nh trị sở thống trị của phong kiến nhà Hán ở Giao Chỉ.
Năm 149 trước Công nguyên, Triệu Đà xâm chiếm à‚u Lạc và sáp nhập và o Nam Việt. Năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán chinh phục Nam Việt, thiết lập chế độ quận, huyện. Dưới thời Hán, đất nước thuộc Quận Giao Chỉ, sau đó là Giao Châu. Trong các công trình vử lịch sử và văn hóa Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đửu xác định Luy Lâu (hay Liên Lâu) và Long Biên là hai huyện lớn thuộc Quận Giao Chỉ (sau đổi là Giao Châu) và trị sở của quận đã thay nhau đóng ở hai huyện nà y, mãi tới nửa đầu Thế kỷ IX, mới chuyển vử Tống Bình, Đại La (tức Thăng Long - Hà Nội sau nà y). Trị sở Long Biên ở đâu?
Nhiửu dự đoán, giả thuyết của không ít các nhà khoa học đưa ra ở các vị trí khác nhau thuộc các huyện Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Từ Sơn, Thị xã Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh ngà y nay. Các dự đoán giả thuyết đửu chưa đủ sức thuyết phục vì thiếu hẳn chứng tích vật chất để khẳng định. Đó là nguồn tà i liệu khảo cổ học. Trong khi đó, trị sở Luy Lâu thì không những được các nguồn thư tịch cổ ghi chép, chỉ dẫn mà còn được khẳng định bằng khu di tích khảo cổ học Luy Lâu với trung tâm là tòa thà nh cổ ở là ng Lũng Khê, xã Thạch Khương, huyện Thuận Thà nh, tỉnh Bắc Ninh ngà y nay.
Phác họa thà nh Luy Lâu xưa
Luy Lâu là ngôi thà nh đất, cấu trúc dạng chữ nhật, nằm gọn trong là ng Lũng Khê, nay còn dấu tích với quy mô khá lớn, kích thước của các lũy thà nh đo được như sau: lũy thà nh phía Tây: 328m; lũy thà nh phía Đông: 320m; lũy thà nh phía Bắc: 680m; lũy thà nh phía Nam: 520m. Các lũy thà nh bị san bạt đi nhiửu, nhưng những chỗ còn lại vẫn cao khoảng 4-5m so với mặt ruộng hiện tại, mặt lũy rộng từ 5 đến 10m, chân rộng từ 25 đến 40m. Thà nh mở cửa chính ở giữa lũy phía Tây, nhìn ra Sông Dâu, hai bên cửa có dựng lầu gác gọi là Vọng giang lâu. Cửa sau mở ra phía Đông, nay còn địa danh xóm Cổng hậu. Trên mặt bốn góc thà nh là đồn canh, nay còn di tích đồn quan trấn (hay còn gọi là tứ trấn thà nh quan.
Bao ngoà i các thà nh lũy là hệ thống hà o. Con Sông Dâu trở thà nh hà o thiên nhiên ở mặt Tây, còn ba mặt Bắc-Đông-Nam là hà o được tạo bởi đà o đất đắp lũy thà nh mà nay còn lại dấu tích là những dãy ao rộng tới 40-50m chạy thà nh dải. Phía ngoà i thà nh hà o là những lũy tre dà y đặc; các hà o thông với nhau và nhận nước từ Sông Dâu, vừa là chướng ngại hiểm trở, vừa là hệ thống giao thông thuận tiện giữa trong và ngoà i thà nh.
Trải trên diện rộng, trong và ngoà i thà nh là dấu tích cư trú kiến trúc với vô và n các di vật gạch ngói các loại, các đồ sinh hoạt, công cụ sản xuất... cho thấy trong và ngoà i thà nh có những công trình kiến trúc quy mô to lớn. Giữa thà nh là Đửn thử Sử¹ Nhiếp với tên gọi Đửn Nam Giao cùng nhiửu đồ vật, văn tự. Rồi hệ thống chùa tháp, đình, đửn thử các tướng của Hai Bà Trưng, khu mộ địa và Lăng Sử¹ Nhiếp ở phía Đông thà nh (nay thuộc Là ng Tam à)...
Cho đến nay, ngoà i Luy Lâu không có nơi nà o trên lãnh thổ Việt Nam còn lại một khu di tích phản ánh tập trung thế kỷ lịch sử Bắc thuộc, đặc biệt là vử Sử¹ Nhiếp trong thời gian là m Thái thú ở Giao Châu và đóng trị sở tại Luy Lâu. Các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam (Hậu Hán thư, Giao Châu ngoại vực ký, An Nam chí lược, Đại Thanh thống nhất chí...) đã ghi Thà nh Luy Lâu có từ thời Tây Hán và là trị sở của Quận Giao Chỉ thời thuộc Hán-Ngô.
Đặc biệt, sách Đại Việt sử ký toà n thư còn cho biết Luy Lâu (hay Liên Lâu)-Long Uyên-Long Biên chỉ là một. Sử¹ Nhiếp là m Thái thú Giao Châu dưới hai triửu Đông Hán và Ngô trong thời gian 40 năm và hai lần được phong tước: Long Bộ Đình Hầu (triửu Đông Hán) và Long Biên Hầu (triửu Ngô).
Suốt thời kử³ là m Thái thú Giao Châu, Sử¹ Nhiếp chỉ đóng trị sở tại Luy Lâu mà không có sự chuyển dời nà o. Di tích Thà nh Luy Lâu (còn có tên là Thà nh Sử¹ Vương, Thà nh Nam Giao), rồi đửn thử ông ở trong thà nh, lăng mộ ở Tam à, cùng các nguồn tà i liệu bia ký, truyửn thuyết, địa danh... ở Luy Lâu đửu thống nhất chỉ định trị sở của Sử¹ Nhiếp tại Luy Lâu. Việc Sử¹ Nhiếp được phong tước Long Biên hầu thời thuộc Ngô cho thấy, và o thời điểm nà y (nửa đầu thế kỷ III trở đi), Luy Lâu (hay Liên Lâu) đã mang tên Long Biên. Lý do việc chuyển đổi nà y có nhiửu cách giải thích khác nhau.
Theo Thủy kinh chú: Năm Kiến An thứ 23 đời Hán, lúc bắt đầu lập thà nh (Long Biên), có giao long lượn đi, lượn lại ở hai bến Nam-Bắc, nhân đó đổi Long Uyên ra Long Biên. Năm Kiến An thứ 23 đời Hán, tức năm 218 là thời điểm Giao Châu dưới quyửn cai quản của Thái thú Sử¹ Nhiếp. Sử¹ Nhiếp đã cho xây dựng Luy Lâu thà nh trị sở cai trị và trung tâm kinh tế, văn hóa ở Giao Châu. Thà nh Luy Lâu được tu bổ mở rộng với quy mô to lớn, trở thà nh công trình phòng vệ kiên cố và căn cứ quân sự lợi hại. Chính văn bia ở đửn thử Sử¹ Nhiếp trong Thà nh Luy Lâu đã xác nhận: Sử¹ Nhiếp người nước Lỗ (Trung Quốc), là vị chân Nho, là m Thứ sử Giao Châu, hà nh đức giữ gìn Phật tượng ở ấp Lũng Chiửn, Siêu Loại, Luy Lâu Thà nh. Lấy Luy Lâu Thà nh là m nơi ở, phụng sự đửn thử và bốn bên Thà nh Luy Lâu.
Đó chính là nơi trị sở... Tóm lại, các nguồn tà i liệu, đặc biệt là tà i liệu ở khu di tích Luy Lâu đã thống nhất và bổ sung cho nhau, xác định Luy Lâu chính là Long Biên thủ phủ Giao Chỉ - Giao Châu thời Bắc thuộc. Trị sở nà y được xây dựng, mở rộng với quy mô lớn, bử thế như kinh đô của một nước dưới thời cai quản của Thái thú Sử¹ Nhiếp.
Mãi tới nửa đầu thế kỷ IX, trung tâm chính trị Giao Châu mới chuyển dời từ Luy Lâu vử Tống Bình (Đại La), chấm dứt vai trò của Luy Lâu gần suốt thời kử³ Bắc thuộc, thời kử³ lịch sử bi hùng của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược và đồng hóa để cuối cùng già nh lại quyửn độc lập dân tộc, xây dựng quốc gia tự chủ và o đầu Thế kỷ X./.