Dấu hiệu giải tửa thu hồi đất trái luật
Theo đơn tố cáo của hà ng chục hộ dân tại ngõ 76 An Dương, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, TP Hà Nội, đất họ đang sử dụng là tự khai phá có nguồn gốc hoang hóa, giữa hai bử Ngọc Thuy (Long Biên) và An Dương “ Phúc Xá (Yên Phụ) và sử dụng ổn định từ trước năm 1993 đến nay. Trong quá trình sử dụng, họ không bị cơ quan chức năng ngăn cản.
Ngoà i ra, ngà y 1/3/1993 các hộ dân trong khu vực đã đồng loạt được cấp sổ xanh để thực hiện nghĩa vụ đóng thuế của nhà nước do ông Nguyễn Văn Phúc, Chủ tịch UBND phường Yên Phụ ký tên, đóng dấu. Đặc biệt các biên lai thuế từ năm 1993 trở vử trước ông Lương Hữu Trọng thu thuế và ký tên; sau năm 1993 đến năm 1999 ông Đỗ Văn Thi thu thuế và ký tên; từ năm 2000 đến năm 2009 ông Hồ Tặng thu thuế và ký tên. Nhưng từ năm 2009 đến nay người dân không biết đóng thuế cho ai, chính quyửn cũng không đôn đốc người dân đóng thuế.
Ngà y 18/2/1992, UBND TP Hà Nội cấp Giấy phép sử dụng khu vực khai thác cát số 263/UB/XDCB cho Công ty khai thác cát và VLXD Hà Nội. Theo đó, Công ty được khai thác cát trong phạm vi 15 ha tại khu vực bãi An Dương, Yên Phụ, Tây Hồ với thời hạn 5 năm.
Quyết định số 1319/QĐ “ UB của UBND TP Hà Nội giao cho Công ty khai thác cát và VLXD Hà Nội 1.013 ha đất để là m bãi chứa cát dự trữ với thời hạn 10 năm. Như vậy văn bản số 263 và quyết định 1319 của UBND TP Hà Nội không phải là quyết định giao đất, quyết định công nhận quyửn sử dụng đất, mà là quyết định cho phép doanh nghiệp khai thác tà i nguyên khoáng sản trên đất.
Mặc dù, được cấp Giấy phép khai thác tà i nguyên trong phạm vi 15 ha từ ngà y 18/2/1992 và giao đất trong phạm vi 1,013 ha từ ngà y 30/3/1993, nhưng từ đó Giấy phép khai thác hết hiệu lực, Công ty khai thác cát và VLXD Hà Nội ngoà i phần diện tích khoảng 6.000m2 đã sử dụng cũ, vẫn chưa hoà n thiện các thủ tục đửn bù, thu hồi, bà n giao để quản lý và sử dụng phần đất còn lại trong số 16 ha. Đặc biệt, ngà y 1/3/1993, tất cả diện tích trong khu 16ha được cấp sổ xanh để theo dõi và thu thuế đất. Căn cứ và o sổ thuế, thông báo thu thuế, hóa đơn, chứng từ... nhân chứng thực tế cho thấy các hộ dân sử dụng ổn định qua bao thế hệ từ trước đến nay là có cơ sở pháp lý.
Do đó, người dân đã là m nhà ở và hình thà nh một tổ dân phố sinh sống ổn định từ trước năm 1993 đến nay và đã đủ điửu kiện được bồi thường vử đất, tà i sản trên đất theo Luật Đất Đai nếu Nhà nước, tổ chức, cá nhân muốn sử dụng diện tích đất.
Thật bất ngử, ngà y 11/9/2009 UBND TP Hà Nội có văn bản số 8785/UBND “ TNMT giao cho UBND quận Tây Hồ căn cứ ranh giới khu đất 16ha, tổ chức giải tửa, thu hồi đất bị các tổ chức, cá nhân lấn chiếm theo quy định của pháp luật... sau khi giải tửa thu hồi đất bị lấn chiếm xong, giao cho UBND quận Tây Hồ lập phương án quản lý, sử dụng tạm thời để chống lấn chiếm; giao cho Sở TNMT cung cấp tà i liệu, hồ sơ hiện có vử quản lí đất đai tại khu vực trên cho UBND quận Tây Hồ và phối hợp tổ chức thực hiện việc giải tửa, thu hồi đất bị lấn chiếm...
Được biết, năm 2015 Trung tâm Phát triển Quử¹ đất và Quản lý duy tu hạ tầng đô thị quận Tây Hồ ra văn bản số 198/2015/HĐTĐ cho Công ty TNHH Xuân Cầu để là m kho xưởng, dịch vụ công đồng, điểm đỗ xe, sân thể thao và vườn ươm (theo nội dung công văn số 3514/UBND “ TNMT ngà y 25/5/2015 của UBND TP Hà Nội) với mức giá 56.919 đồng/m2/1năm.
Việc Nhà nước tiến hà nh giải tửa thu hồi phải có quyết định thu hồi đất; nếu có khó khăn mà phải cườ¡ng chế thu hồi đất, thì cơ quan có thẩm quyửn phải ban hà nh quyết định cườ¡ng chế thu hồi đất và tiến hà nh cườ¡ng chế theo đúng quy định của pháp luật. Điửu nà y cho thấy UBND quận Tây Hồ tiến hà nh cườ¡ng chế thu hồi đất và cho doanh nghiệp thuê đất là vội và ng, khi chưa có quyết định thu hồi đất; quyết định cườ¡ng chế đất, và có dấu hiệu trái quy định với Luật Đất Đai năm 1993.