Chùa Hương được biết đến rộng rãi với danh hiệu là đạo trà ng của Bồ Tát Quán Thế à‚m có lẽ được bắt nguồn từ truyện nôm Truyện Phật bà chùa Hương.
Thượng tọa Thích Minh Hiửn, trụ trì Chùa Hương cùng các tăng, ni, phật tử dâng hương (Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN) |
Thường thì ai đến chùa Hương cũng biết đến sự tích bà chúa Ba hay còn gọi là Công chúa Diệu Thiện, bà là con thứ ba của vua Diệu Trang; Công chúa là một hiện thân của đức Quán Thế à‚m, đã từ chối tất cả cao sang quyửn quý, vượt mọi trở ngại khó khăn trên đường tu hà nh, nêu cao gương đức độ và cuộc sống khổ hạnh cho tất cả quần sinh. Bà Diệu Thiện đã đắc đạo tại chùa Hương Tích. Nhưng trên thực tế, Truyện Phật Bà chùa Hương lại là một tác phẩm được diễn Nôm và chuyển sang thể thơ lục bát truyửn thống của Việt Nam từ tác phẩm chữ Hán Nam Hải Quán à‚m truyện, tương truyửn tác giả là một vị Tăng nhân đời Nguyên của Trung Quốc.
Trước khi tìm hiểu vử nguyên bản của Truyện Phật bà chùa Hương, người viết xin giới thiệu một và i nét vử sự truyửn nhập của đạo trà ng của Bồ Tát Quán Thế à‚m cũng như tác phẩm Truyện Phật bà chùa Hương và o Việt Nam.
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ, sau đó được truyửn bá rộng rãi sang các nước lân cận, nhưng khi sang đến các nước khác, Phật giáo tiếp xúc với nửn văn hóa sở tại và được bản địa hóa, trở nên phong phú hơn, phù hợp hơn với từng nửn văn hóa khác nhau. Tín ngườ¡ng Quán Thế à‚m sau khi được bản địa hóa kết quả là đạo trà ng của Ngà i cũng được chuyển đến các nước Đại thừa Phật giáo.
Theo Kinh Hoa Nghiêm phẩm nhập pháp giới, Quán à‚m Bồ Tát thường trụ tại núi Quang Minh (Potaloka), theo âm Hán dịch là Bổ Đà Lạc Gia Sơn hay Phổ Đà Lạc Già , chỉ rõ vị trí là ở phía nam; theo Tân Thích của Tổ Thực Xoa Nan Đà lại bổ sung là trên biển. Những học giả cận đại cho rằng đạo trà ng của Ngà i thuộc một vùng biển của phía nam của Ấn Độ hoặc Sri-Lanka.
Chuyện rằng:
Phía Nam Ấn Độ có ngọn núi tên là Bổ Đà Lạc Già , có một vị Bồ Tát trụ ở đây, tên là Quán Tự Tại. Ngọn núi ấy nằm giữa biển và do các loại báu vật kết hợp tạo thà nh, vô cùng thanh tịnh; hoa quả, cây cối đầy cả núi. Cũng có suối nước chảy, những hồ nước trong là nh và được phân bố khéo léo, hà i hoà . Bồ Tát Quán Thế à‚m ngồi kiết già ở đó và vô lượng Bồ Tát cung kính vây quanh lắng lòng nghe Bồ Tát Quán Thế à‚m thuyết pháp Đại Từ Bi.
Cũng từ vị trí địa lí như vậy mà Quán tự tại Bồ Tát lại có danh hiệu là Quán à‚m Nam Hải". Tín ngườ¡ng Quán à‚m Nam Hải còn có quan hệ mật thiết với ngà nh hà ng hải cổ đại, trong thời kử³ ngà nh đóng thuyửn có kử¹ thuật tương đối phát triển, việc đi lại trên biển trở nên thường xuyên hơn, bất kể là những người trong thủy đoà n cũng như thương nhân, trong ngà y dà i phải chống chọi với sóng gió và nhiửu nguy hiểm ở trên biển, họ bắt đầu bị khủng hoảng vử tinh thần và cố tìm kiếm một thế lực thần thánh để nương tựa.
Vậy nên họ tìm đến Quán à‚m Bồ Tát như là một vị thánh cứu khổ cứu nạn ở trên biển. Nhưng Nam Hải lại là một khái niệm rất rộng lớn, theo quan niệm của các học giả cổ đại Trung Quốc, Nam Hải là vùng biển chạy dọc từ Chiết Giang tới duyên hải Quảng Đông, bao gồm cả vùng biển thuộc Đông Nam à. Cũng trong thời kì nà y, các hoạt động vử thương mại diễn ra rất thường xuyên trên vùng biển từ Chiết Giang đến tận Giao Chỉ (tên gọi cổ của Việt Nam), từ đó các giao lưu vử kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo... trở nên phổ biến và thường xuyên hơn.
Tín ngườ¡ng vử Quán à‚m Nam Hải cũng từ đó mà được lưu truyửn rộng rãi trong nhân gian. Vậy nên, việc hình thà nh đạo trà ng của Quán à‚m Bồ Tát trên vùng biển nà y điửu tất yếu và cần thiết trong quá trình bản địa hóa Quán à‚m Nam Hải.
Đạo trà ng Phổ Đà Sơn tại huyện Định Hải, tỉnh Chiết Giang được hình thà nh trong cuối đời Đường, mà một trong những nguyên nhân chính là do địa thế vô cùng đặc biệt của núi Phổ Đà . ửc đảo Phổ Đà nằm gần trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa phía nam của Trung Quốc cổ đại, cũng là trạm đầu tiên của con đường tơ lụa trên biển, chính vì vậy mà Phổ Đà Sơn không chỉ thu nhận văn minh tơ lụa mà còn hấp thu những tinh hoa của văn hóa Phật giáo Ấn Độ, mà đại biểu ở đây là tín ngườ¡ng Quán à‚m Nam Hải.
Tương truyửn, Phổ Đà Sơn vốn tên là Mai Sầm. Xưa, Trung Quốc và các nước như Nhật Bản, Cao Ly (Triửu Tiên)... qua lại với nhau, phần đông đửu lấy ốc đảo nà y là m nơi neo thuyửn, đợi đến lúc có gió rồi mới căng buồn đi tiếp.
Đến nhà Hậu Lương đời Ngũ Hồ, năm Trinh Minh thứ hai (416), có một vị Tăng người Nhật Bản tên là Tuệ Ngạc đến Trung Hoa cầu pháp thỉnh được một tôn tượng Quán Thế à‚m, vị Tăng nà y định mang vử Nhật Bản cúng dà ng. Nà o ngử thuyửn của vị ấy khi đi qua phía đông của Phổ Đà Sơn là Tân La Tiêu lại bị sóng to gió lớn là m cho chuyến hồi hương bị trở ngại.
Truyện kể lại rằng: Lúc ấy mặt biển bỗng nhiên mọc lên vô số thiết liên hoa (hoa sen bằng sắt) là m cho thuyửn không tiến vử phía trước được. Vì thế bắt buộc phải thỉnh thánh tượng lên một hòn đảo nhử, dựng một thảo am để cúng dà ng. Bồ Tát Quán Thế à‚m rất có duyên với hòn đảo nà y. Lâu ngà y nhiửu người bắt đầu biết và họ đến đây lễ bái ngà y một đông. Và cuối cùng nơi nà y đổi thà nh tên là Phổ Đà Sơn.
Thế nhưng, đạo trà ng của Quán Thế à‚m Bồ Tát xuất hiện lần đầu tiên tại Trung Quốc lại không phải ở Phổ Đà Sơn, mà lại là tại Bình Đỉnh Sơn thuộc Hương Sơn. Theo các ghi chép cổ, Bình Đỉnh Hương Sơn là một hạt của Nhữ Châu thời Tống, trong Đại Minh Chính Đức Nhữ Châu Chí có ghi chép: Hương Sơn, vốn có tên là Hửa Châu Sơn (Bình Đỉnh Sơn nay là sở thuộc của huyện Bảo Phong), có hai ngọn núi đối nhau, phía đông là Đại Long Sơn, phía tây là Tiểu Long Sơn, thế truyửn là nơi thà nh đạo của Đại Bi Quán à‚m Bồ Tát.
Hương sơn vốn được trích ra từ kinh điển Phật giáo, tương truyửn, Phật Thích Ca Mâu Ni được sinh tại thà nh Ca Tì La Vệ, trong kinh Phật còn tên là Phụ Thà nh, gần Phụ Thà nh có một địa danh là Hương Sơn, chính vì vậy, cùng với sự truyửn bá của Phật giáo, địa danh Hương Sơn cũng được truyửn nhập và o Trung Quốc. Phật giáo truyửn nhập và o Trung Quốc những năm đầu của thời Đông Hán, đến thời kì Hằng Đế, Linh Đế (147-189), các tăng nhân từ Tây thà nh đến Trung Quốc ngà y cà ng nhiửu, họ thường đến thà nh Lạc Dương trước, rồi từ đó mới tới các nơi khác để hoằng pháp.
Tại các địa danh gần đó như Nam Dương và quận Dĩnh Xuyên thường xuyên có các tăng nhân đến hoằng pháp. Hương Sơn vốn thuộc huyện Bảo Phong, thời đó có tên là Phụ Thà nh, thuộc quận Dĩnh Xuyên; Phụ Thà nh vốn là nút giao thông chính giữa Lạc Dương, Dĩnh Xuyên và Nam Dương, chính vì vậy, nơi đây cũng trở thà nh trung tâm truyửn bá Phật giáo.
Đông Hán Linh Đế năm Quang Hòa thứ 2 (179), một vị tăng là Chi Pháp Độ từ Tây Trúc đến Dĩnh Xuyên truyửn giáo, đã phát hiện ra núi Hửa Châu và cùng với các Phật tử xây dựng chùa Hương Sơn Đại Phổ Môn Thuyửn Tự, từ đó cái tên Hửa Châu được thay bằng Hương Sơn. Đến năm Nguyên Phù thứ 2 (1099), một vị học sĩ hà n lâm là Tưởng Chi Kử³ đến Nhữ Châu nhậm chức tri huyện. Tưởng Chi Kử³ đến Nhữ Châu không lâu thì nhận được lời mời của sa môn trụ trì Hoà i Trú đến thăm chùa Hương Sơn, qua lời kể của vị trụ trì nà y ông đã biên soạn nên tác phẩm Hương Sơn Đại Bi Bồ Tát truyện, đây cũng là tác phẩm tạo nên ảnh hưởng rất lớn đến các sáng tác vử Quán à‚m Bồ Tát sau nà y, và đem lại cho Hương Sơn danh hiệu Quán à‚m tổ đình.
Đến năm Nguyên Phù thứ 3 (1100), một nhà thư pháp nổi tiếng thời Bắc Tống là Thái Kinh Thư Đan đã biên soạn nên tác phẩm Nhữ Châu Hương Sơn Bồ Tát truyện, sau nà y được khắc bia và được coi là tà i liệu nguyên thủy có giá trị khảo cứu cao để nghiên cứu vử truyửn thuyết công chúa Diệu Thiện. Trải qua các thời đại, Hương Sơn Đại Bi Bồ Tát truyện được chuyển thể và thay đổi một số tình tiết với những tên gọi khác nhau như: Quán Thế à‚m Bồ Tát truyện lược, Nam Hải Quán à‚m Bồ Tát xuất thân tu hà nh truyện, Quán à‚m truyện, Quán à‚m đắc đạo v.v., nhưng đử tà i và cốt truyện vẫn xoay quanh cuộc đời tu hà nh và đắc đạo của công chúa Diệu Thiện. Trong đó, nổi tiếng và được phổ biến sâu rộng nhất trong dân gian phải nói đến tác phẩm theo thể chương hồi Nam Hải Quán à‚m Bồ Tát xuất thân tu hà nh truyện của một tác gia đời Minh, đây cũng là nguyên mẫu để sau nà y hình thà nh nên truyện nôm Phật bà chùa Hương của chúng ta tại Việt Nam. Sau khi chùa Phổ Đà Sơn được xây dựng, trong dân gian cũng xuất hiện cách nói vử Ngà i như xuất gia tại chùa Bạch Tước, chứng đạo tại Hương Sơn, hiển linh tại Nam Hải, cũng từ đó, Phổ Đà Sơn được biết đến như là đạo trà ng của Nam Hải Quán à‚m, còn Hương Sơn là nơi Ngà i đắc đạo.
Tại Việt Nam, đạo Phật cũng được du nhập từ khá sớm với nhiửu con đường khác nhau, trong đó Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá lớn từ Trung Quốc. Như đã nêu trên, vùng Giao Chỉ (tức Việt Nam) vốn nằm trong khái niệm vử Nam Hải, vậy nên tín ngườ¡ng vử Quán à‚m Nam Hải theo đường biển cũng đã được du nhập và o Việt Nam.
Và o những năm đầu của thế kỉ thứ IX, Giao Chỉ đã nổi tiếng với phong trà o dịch thuật kinh Phật, các tăng sử¹ Phật giáo thường xuyên lui tới Trung Nguyên để học pháp cầu kinh, đây cũng là giai đoạn mà dân gian được tiếp xúc thường xuyên và liên tục với đạo Phật, và cũng là tiửn đử cho sự hưng thịnh của đạo Phật và o những thập kỉ thứ X cho đến thứ XIV ở Việt Nam. Trong một tác phẩm của Vương Bột là Quán à‚m Đại Sử¹ tán có nhắc đến Quán à‚m tự tại với đạo trà ng là Thất Bảo Lạc Nghênh Sơn tại Hải Nam, đây cũng là một bằng chứng cho thấy và o thời kì đầu của nhà Đường, tín ngườ¡ng vử Quán à‚m Nam Hải đã được thịnh hà nh tại dọc vùng biển Hải Nam và Giao Chỉ.
Nhưng qua những công trình nghiên cứu mử¹ thuật và kiến trúc Việt Nam, hình ảnh đức Quán Thế à‚m Bồ Tát lại ít được nhắc tới từ thế kỷ XI, hay trước hơn thế nữa. Hình thức thử đức Quán à‚m Nam Hải mới chỉ thấy có từ thế kỷ thứ XVI trở vử sau. Tích truyện được trình bà y nhiửu nhất và sớm nhất dẫn giải vử đức Quán Thế à‚m Nam Hải gắn với lời kết của một vị tăng đời nhà Nguyên ở Trung Quốc.
Tích nà y có thể đã lưu truyửn và o Việt Nam và o thế kỷ XV, căn cứ theo các Tự phả, rồi sau đó được Việt Nam hoá sâu rộng trong thế kỷ thứ XVI. Tác phẩm còn được cho là bộ kinh tiếng Việt đầu tiên đặt nửn móng cho Phật giáo Việt hóa. Còn vử tác giả của truyện Phật bà chùa Hương thì cho đến nay, vẫn còn có nhiửu tranh luận trong giới học thuật, nhưng tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất là bản Hương Sơn Quán Thế à‚m chân kinh tân dịch của Kiửu Oánh Mậu, sau nà y được Tổ Thích Viên Thà nh sử dụng là m tà i liệu chính để xuất bản nên Sự tích Phật bà chùa Hương bằng chữ Quốc ngữ, đây cũng là cuốn truyện được những Phật tử cũng như du khách đến thăm chùa Hương biết đến và truyửn tay nhiửu nhất.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà vùng núi Hương Sơn, huyện Mử¹ Đức, tỉnh Hà Tây (cũ) của Việt Nam ta lại trùng tên với địa danh được nhắc đến trong Hương Sơn Đại Bi Bồ Tát truyện và trở thà nh đạo trà ng thử Bồ Tát Quán Thế à‚m. Cũng chính vì sự linh thiêng của chùa Hương cũng như sự nổi tiếng của truyện Phật bà chùa Hương mà trong dân gian ta có lưu truyửn câu Nam Hương Tích, bắc Bổ Đà , nghĩa là ở Việt Nam ta thì có chùa Hương Tích là đạo trà ng của Bồ Tát Quán Thế à‚m, còn ở Trung Quốc thì đạo trà ng của Ngà i tại Bổ Đà Sơn.
Giáo lý từ bi và hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế à‚m được khởi nguồn từ Ấn Độ, nhưng sau khi được bản địa hóa, hình ảnh của Ngà i đã phù hợp hơn với văn hóa, tâm tình của người Việt Nam, và một trong những phương tiện giáo hóa có tác dụng sâu rộng và gần gũi nhất với người dân đó là những câu ca dao, những câu truyện nôm vử đạo Phật. Điửu đó cũng được chứng minh qua sự lưu truyửn của truyện Phật bà chùa Hương, hình ảnh của bà Chúa Ba và đạo trà ng Hương Tích đã không còn dấu vết của sự ngoại lai, mà trở nên thật hơn, gần gũi hơn với người dân Việt Nam chúng ta./.