Khi đặt bút viết bài này bất giác tôi nhớ đến câu hát: Tung cánh chim tìm về tổ ấm/ Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm/ Nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi/ Luyến tiếc bao ngày xanh, câu hát mà cho đến giờ tôi vẫn ngờ ngợ đồ rằng nhạc sĩ Hoàng Giác đã linh cảm rồi tiên định về người con trai trưởng của mình, nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm, khi ông viết những ca từ ấy. Quả thực, càng ngẫm càng thấy đúng, dường như Hoàng Nhuận Cầm trong cuộc đời, trong thơ luôn như một cánh chim suốt đời đi tìm tổ ấm, suốt đời luyến tiếc. Quả thực, câu thơ của Hoàng Nhuận Cầm cho dù viết ở thời khắc nào, ở giai đoạn nào thì ngôn từ vẫn “nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi”.
Những câu thơ kiểu ấy, hay chính xác hơn là ca từ của bài hát Ngày về của người cha nhạc sĩ đã gieo sâu vào tâm hồn chàng trai trẻ Hoàng Nhuận Cầm để anh đến với thơ và vụt sáng. Bước chân vào khoa ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ngay tức thì “thơ tuôn ào ạt” và ngay lập tức được đón nhận, nhất là giới sinh viên: Em thấy không tất cả đã xa rồi/ Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ/ Tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế/ Hoa súng tím vào trong mắt lắm mê say. Cũng bởi, câu thơ vừa nói cho mình, vừa nói hộ người, lại ngân nga trong trẻo mà khám phá.
Và, không nghi ngờ gì nữa, nếu như “dòng văn học Trường Sơn” với Phạm Tiến Duật “lĩnh ấn tiên phong” thì ở đây, ở “tiếng thơ lòng” này Hoàng Nhuận Cầm chính là người khơi mạch nguồn cho “dòng thơ sinh viên”. Và cũng không nghi ngờ gì nữa, những bài thơ “như bất chợt ngân lên” của chàng sinh viên trẻ Hoàng Nhuận Cầm được sinh viên mọi ngành học, mọi trường đại học, thế hệ này tới thế hệ khác say sưa lắng nghe, say sưa đọc và say sưa ghi nhớ.
Công bằng mà nói thì sinh viên làm thơ hay thơ của sinh viên không có gì là mới lạ. Trước Hoàng Nhuận Cầm đã có vô số những câu thơ sinh viên của nhiều thế hệ sinh viên. Tuy nhiên phải đợi đến khi Hoàng Nhuận Cầm xuất hiện thì “thơ sinh viên” mới có cuộc chuyển đổi. Cuộc chuyển đổi ấy như là một cuộc “cách mạng” trong sinh viên vậy. Và từ đó, từ đầu những năm 70 của thế kỷ hai mươi, một “dòng thơ sinh viên” được hình thành với “chủ soái” Hoàng Nhuận Cầm.
Sinh ngày 7 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, Hoàng Nhuận Cầm quê gốc ở làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm (nay là quận Bắc Từ Liêm). Năm 1971, đang học khoa ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hoàng Nhuận Cầm nhập ngũ. Anh thuộc lớp chiến sĩ “6971” lừng danh, lớp chiến sĩ ấy gồm toàn những sinh viên các trường đại học ở Hà Nội lên đường nhập ngũ vào đúng thời kỳ ác liệt nhất của cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Nam với trọng điểm là Thành cổ Quảng Trị. Sau ngày 30/4/1975, Hoàng Nhuận Cầm trở lại học nốt chương trình đại học, nhưng cái tên Hoàng Nhuận Cầm trong thi ca đã vang lên từ trước đó nhiều năm. Và những câu thơ như: Ngụy trang công sự xong rồi/ Mới hay đồi chốt là đồi lắm chim/ Cứ ôm khẩu súng ngồi yên/ Lắp thêm băng đạn, còn đêm đấy mà. Thản nhiên cơn gió chạy qua/ Tiếng chim lách chách, gần xa chuyện gì? (Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt) vẫn giữ nguyên giọng điệu sinh viên cho dù khi đó khói súng đã thấm đẫm, cho dù “bụi trường chinh phai nhạt áo hào hoa”. Những câu thơ “sinh viên” ấy đã đem lại “luồng gió mới, đem lại hơi thở mới và đem lại sức sống mới cho thơ Việt Nam thời đánh Mỹ”. Nhất là, chùm thơ bốn bài của Hoàng Nhuận Cầm: Thư mùa thu; Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt; Anh bộ đội và tiếng nhạc la; Nhật ký đã vinh dự được trao đồng giải Nhất cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức năm 1972 - 1973, cùng với chùm thơ của Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ và Nguyễn Đức Mậu. Tất cả các tác giả đoạt giải “nguyên” năm đó đều còn rất trẻ, họ đều ở tuổi ngoài đôi mươi, riêng Hoàng Nhuận Cầm trẻ nhất, ngày nhận giải thưởng anh vừa bước qua tuổi hai mươi.
Sau thành công ấy Hoàng Nhuận Cầm tiếp tục viết, anh viết ngay tại chiến trường, viết ngay trên giảng đường đại học. Một giọng thơ trong trẻo với những ngôn từ bay bổng, đôi chút mơ mộng. Một giọng thơ đắm say, ngôn từ da diết, đôi chút chiêm nghiệm. Hai mươi năm sau, giọng thơ ấy vẫn nguyên như vậy, chỉ có khác là nó sâu lắng hơn, súc tích hơn, như: Tình yêu đến trong đời không báo động/ Trái tim anh chưa lỗi hẹn bao giờ/ Viên xúc xắc mùa thu ru trong cỏ/ Mắt anh nhìn sáu mặt bão mưa giăng (Viên xúc xắc mùa thu) và Mai đành xa sông Thương thật thương/ Mắt nhớ một người, nước in một bóng/ Mây trôi một chiều, chim kêu một giọng/ Anh một mình náo động, một mình anh (Sông Thương tóc dài).
Hoàng Nhuận Cầm, người khơi mạch nguồn “dòng thơ sinh viên” vốn tồn tại và tiềm ẩn nhiều năng lực. Anh xuất hiện như chưa khi nào ngưng nghỉ, những vần thơ “rủ lòng trai trẻ” của anh cứ tuôn như dòng suối chảy. Những câu thơ tuy sinh ra tận cõi lòng nhưng nó lại không hề ủy mị, không hề lạc điệu, không hề xa cách. Thơ “sinh viên” của Hoàng Nhuận Cầm có thời đại ở trong đó, có hơi thở cuộc sống ở trong đó, có mình và có chúng ta ở trong đó. Câu thơ mang âm hưởng của cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Câu thơ mang tiếng nói của thế hệ. Đó là: Và bài ca không cần hát ra lời/ Tiếng chim hót ngay trên nòng đại bác/ Một ánh mắt không thể nào đổi khác/ Phượng vẫn hồng như máu những năm xưa (Cho phượng năm xưa) hoặc Tiếng mùa mưa hồn hậu đến bên tôi/ Tiếng thương nhớ không lời trên tóc mẹ/ Tiếng Tổ quốc trên môi khi đạn xé/ Tiếng cuối cùng khi khẩu súng nắm trên tay (Phương ấy).
Tôi dám cược mà nói rằng, hễ những ai đã nghe thơ Hoàng Nhuận Cầm, hễ những ai đã thuộc thơ Hoàng Nhuận Cầm và hễ những ai yêu thơ Hoàng Nhuận Cầm đều trăm người như một khi Tổ quốc gặp họa xâm lăng là hồ hởi lên đường chiến đấu. Thế mới hay, giọng thơ sinh viên cứ tưởng phù du vậy mà còn hơn trăm vạn lời hiệu triệu. Thế mới biết, thơ Hoàng Nhuận Cầm đã thổi vào tim những người trẻ tuổi một niềm tin trong một tình yêu đất nước đến da diết, đến sẵn sàng mang cuộc đời trẻ trung sôi nổi của mình vào những nơi kham khổ nhất, vào nơi sinh tử nhất.
Và như Hoàng Nhuận Cầm đã viết: Có chút gì linh diệu giống như thơ/ Lại phảng phất như phù dung mới nở/ Điều bí mật anh sẵn sàng tiết lộ/ Mà mặt trời cố chấp vẫn chưa tin (Quán cà phê mặt trời).
Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã vội đi xa, nhưng tôi tin những câu thơ cùng “dòng thơ sinh viên” do anh khơi mạch nguồn mãi còn đó, mãi còn được các thế hệ sinh viên yêu mến bởi chính dòng thơ đó đã góp vào nền thi ca nước nhà một tiếng nói của tình yêu và tuổi trẻ.