Thời đại Nguyễn Gia Thiều (1741 “ 1798) sống là thời đại có nhiửu biến động và bế tắc. Sự ăn chơi trụy lạc của vua chúa, quan lại phong kiến đã khiến cho loạn lạc, đói kém diễn ra khắp nơi. Những cuộc thanh trừng lẫn nhau trong triửu đình phong kiến đã khiến cho người dân lại phải chịu đựng nhiửu nhất sự bóc lột, nghèo đói thậm chí là sự phơi thây của những binh sĩ ngoà i chiến trường.
Nguyễn Gia Thiửu là người là ng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại nay là huyện Thuận Thà nh, tỉnh Bắc Ninh. Nhưng ông sinh ra và lớn lên ở Thăng Long vì cha ông là một võ quan cao cấp được phong tước Đạt Vũ hầu và mẹ ông là Quận chúa Quử³nh Liên, con gái chúa Trịnh Cương. Năm 19 tuổi ông đã được phong là Hiệu úy từng giữ chức Tổng binh coi xứ Hưng Hóa và do có công nên ông được phong tước hầu à”n Như.
Nguyễn Gia Thiửu là một tà i năng đa dạng, ông có sở trường vử nhiửu lĩnh vực như cầm kử³ thi họa, kiến trúc, trang trí... chính vì vậy mà ngay tại kinh thà nh Thăng Long, bên bử Hồ Tây ông có một dinh thự riêng bên trong khuôn viên được ông cho xây dựng và trang trí vô cùng đẹp. Chúa Trịnh Sâm khi đi thuyửn đến thăm (có lẽ là đường sông Tô Lịch) đã phải khen: Và o đây có được cái phong thú như ngư phủ nhập đà o nguyên rồi còn vời ông vử nội phủ để sửa sang, trang hoà ng cung điện.
Phần mộ danh nhân Nguyễn Gia Thiửu
à”ng sống trong sự vương giả nên ông có được những chiêm nghiệm của thực tế cung vua phủ chúa ở Thăng Long. Ngay từ khi còn bé ông đã được ăn học trong phủ chúa do đó ông đã tận mắt chứng kiến cảnh ngộ của những cung nữ bị bử rơi. Vì sống ngay tại nơi đô thà nh phồn hoa, được hưởng một cuộc sống thửm và ng đệm ngọc nên ông đã cảm nhận được tâm tư của những người cung nữ phải sống mòn mửi trong ngục tù nhung lụa.
Chính Thăng Long đã khơi nguồn cho ông sáng tác ra tác phẩm Cung oán ngâm khúc gồm 356 câu thơ song thất lục bát.
Nếu như tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (có nhiửu bản dịch) đã là một tiếng nói phản đối chiến tranh thì Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiửu góp thêm lời tố cáo cuộc sống chán chường mệt mửi, bất bình vì những cay nghiệt: Cảnh phù du trông thấy mà đau.
Đã đà nh rằng nửa sau thế kỷ 18, trên văn đà n thơ ca có rất nhiửu tác phẩm vang lên tiếng nói đòi hửi hạnh phúc của người phụ nữ, cũng có nhiửu người lấy thân phận cung nữ là m đử tà i sáng tác nhưng có lẽ chỉ đến Nguyễn Gia Thiửu, với sự chứng kiến và trải nghiệm một cách sâu sắc cuộc sống người cung nữ trong cung vua phủ chúa mới cho ra đời được tác phẩm đấu tranh và dữ dội nhất cho hạnh phúc người phụ nữ.
à”ng đã dùng lối văn độc thoại, là m lời một cung phi tà i sắc trình bà y tâm trạng và nỗi đau đớn bị vua ruồng bử. Người phụ nữ trong khúc ngâm đã lên tiếng. Nà ng ý thức rõ rệt vử phẩm chất, tà i năng của mình, nà ng tố cáo cuộc sống trụy lạc, xa hoa của bọn vua chúa, biến người cung nữ thà nh thứ đồ chơi. Nà ng miêu tả nỗi thê thảm trong cuộc sống cô đơn, tù túng. Từ sự phản ánh hiện thực với lòng phẫn nộ và sự oán hửn như vậy, nà ng triết lý vử cuộc đời ảo mộng, dối trá, phù du và tuyệt vọng:
Trăm năm còn có gì đâu, Chẳng qua một nấm cử khâu xanh rì.
Không gian Cung oán ngâm khúc là không gian bưng bít của chốn tiêu phòng lạnh lẽo. Thời gian Cung oán ngâm khúc chủ yếu là mùa thu và bóng đêm. Cảnh trong Cung oán ngâm khúc là cảnh lồng qua mà n sương hồi ức và tưởng tượng. Đặc biệt, lối biểu hiện bằng cảm giác như xúc giác, thị giác, thính giác là cách viết độc đáo của Nguyễn Gia Thiửu có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam, rất tập trung và cô đọng.
Ở đây, Nguyễn Gia Thiửu đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà nho thời đại ông, chán chường và mệt mửi. Chính vì vậy ông đã trốn tránh những hư danh nơi quan trường, vử sống ẩn dật, uống rượu, ngâm thơ. Ngay thời Tây Sơn, khi được mời ra cộng tác, ông cũng cáo bệnh để trốn tránh.
Cuối đời, ông sống rồi qua đời tại Thăng Long, mộ ở ven Hồ Tây sau nà y con cháu mới đưa vử quê Liễu Ngạn.
Có thể nói vùng đất kinh kử³ Thăng Long cuối thế kỷ 18 có rất nhiửu biến động lớn. Nguyễn Gia Thiửu có những cơ hội để sống một cuộc sống nơi hoà ng cung, phủ chúa nên ông đã thấu hiểu được nỗi cay đắng, xót xa của thân phận người phụ nữ bị bó buộc nơi lầu son gác tía. Nó đã trở thà nh một nguồn xúc cảm chân thực để cho ra đời tác phẩm Cung oán ngâm khúc “ một tác phẩm đưa Nguyễn Gia Thiửu bước lên đỉnh cao của nghệ thuật thi ca Việt Nam.