Nghử là m giấy của nước ta có từ lâu. Nếu như và o khoảng năm 1500, người Mử¹ mới biết là m giấy thì những cuốn sách cổ ở thế kỷ III, IV đã nói đến giấy của Việt Nam. Bấy giử ngoà i việc dùng vử cây dó để là m giấy, tổ tiên ta còn dùng rêu bể và đặc biệt là gỗ trầm để là m giấy. Giấy là m bằng vử cây và lá cây gỗ trầm gọi là giấy mật hương mà u trắng, có vân, thơm bửn, bử xuống nước không bị nát.
Sau khi nước ta già nh được độc lập, dưới triửu nhà Lý (thế kỷ XI “ thế kỷ XIII) Thăng Long trở thà nh một trung tâm sản xuất giấy quan trọng. Nhiửu nhà ở vùng Dịch Vọng chuyên sản xuất giấy. Thời bấy giử người ta gọi nơi đó là ngõ là m giấy và chính vì vậy, chiếc cầu bắc qua sông Tô Lịch ở vùng đó đã mang tên Cầu Giấy (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội). Cũng ngay từ thời Lý dân là ng Nghĩa Đô (Hà Nội) đã sản xuất ra loại giấy sắc (loại giấy dà nh riêng cho vua dùng để viết sắc lệnh) có vẽ rồng và mây, gọi là giấy Long àm. Có lần vua nhà Lý đã sai sứ giả mang biếu vua Tống loại giấy tốt do nước ta sản xuất.
Và o thế kỷ V, Nguyễn Trãi trong tác phẩm Dư địa chí năm 1438 đã viết dân phường Yên Thái thuộc vùng Bưởi (nay thuộc quân Tây Hồ, Hà Nội) chuyên sống bằng nghử là m giấy. Cho đến nay ở là ng Bưởi vẫn còn một số hộ sản xuất giấy dó.
Sau khi phát minh ra giấy, trong một thời gian dà i người ta thường chỉ có sách chép tay. Việc sao chép tay rất chậm lại thiếu chính xác cho nên trước khi nghử in ra đời, việc đọc sách bị hạn chế, vì vậy mà việc truyửn bá tri thức văn hóa trong xã hội rất khó khăn.
Bản sắc phong thời Nguyễn
Từ thế kỷ VII, VIII, ở nước ta đạo Phật rất thịnh, chùa chiửn được xây dựng ở mọi nơi. Các nhà sư vừa giửi tiếng Phạn (ngôn ngữ Ấn độ cổ), vừa tinh thông tiếng Hán đã góp phần dịch nhiửu bộ kinh Phật từ tiếng Phạn ra tiếng Hán. Có lẽ nghử in ở Việt Nam đã có từ bấy giử, và được bắt nguồn từ nhu cầu in các loại sách kinh nhà Phật. Tuy nhiên, điửu chắc chắn rằng dưới thời Lý “ Trần, nghử in đã được lưu hà nh rộng rãi đặc biệt là tại kinh thà nh Thăng Long.
Trong sách Thiửu uyển tập anh viết dưới thời nhà Trần đã chép rằng: Sư Tín học, họ Tô, người là ng Chu Minh, phủ Thiên Đức (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) cả nhà là m nghử khắc các bản in kinh Phật. à”ng mất năm 1190 như vậy là ít nhất từ thế kỷ XII, nghử in sách bằng bản khắc gỗ đã có ở nước ta.
Dưới thời Trần, khoảng niên hiệu Nguyên Phong (1251 “ 1258) đời vua Trần Thái Tông, nhà nước quân chủ phong kiến đã sai in các tử khai hộ khẩu bằng bản khắc gỗ và cho lưu hà nh khắp cả nước. Các bản in kinh Phật cũng được tiếp tục phổ biến.
Năm 1396, Hồ Quý Ly đã cho in và ban hà nh tiửn giấy lần đầu tiên. Tiửn giấy thời Hồ có khắc hình khác nhau với những mệnh giá khác nhau. Giấy 10 đồng in hình rêu biển, giấy 30 đồng in hình sông nước, giấy 2 tiửn in hình con rùa, con giấy 3 tiửn in hình con lân, giấy 1 tiửn in hình đám mây, giấy 5 tiửn in hình con phượng, giấy 1 quan in hình rồng. Đây là những ấn loát phẩm có hình vẽ xưa nhất của nước ta mà sử sách còn ghi lại. Tuy nhiên, do việc Hồ Quý Ly lấn quyửn nhà Trần nên không được dân ủng hộ, và vì vậy những chính sách cải cách trong đó có việc sử dụng tiửn giấy của nhà Hồ không được nhân dân là m theo.
Sang đến thời Lê, kinh đô Thăng Long đã có những phố phường chuyên khắc sách mà không bị ngăn cấm. Việc khắc sách nà y đã giúp cho sự truyửn bá những giá trị văn hóa đặc biệt là sự nghiệp văn chương của các bậc tà i hoa tụ hội tại Thăng Long. Triửu đình nhà Lê đã chính thức cho sản xuất các sách Nho học. Thời Lê, Nho giáo trở thà nh quốc giáo, những tác phẩm văn chương của nhà nho đương thời trong đó đặc biệt là vua Lê Thánh Tông đã góp phần là m cho nghử in tại kinh thà nh phát triển, truyửn bá rộng rãi những tác phẩm văn chương có giá trị trong xã hội. Năm 1435, vua Lê Thánh Tông đã cho in 4 tác phẩm lớn của Nho giáo (Tứ thư: Đại Học, Trung Dung, Luật Ngữ, Mạnh Tử) để dùng là m sách giáo khoa ở các trường trong nước. Năm 1467, vua Lê Thánh Tông sai in 5 tác phẩm khác của Nho giáo (Ngũ kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu). Những tác phẩm in nà y đửu được tà ng trữ tại kho tà ng thư của trường Quốc Tử Giám (thuộc khu Văn Miếu “ Quốc Tử Giám, Hà Nội ngà y nay).
Sách học dự thi của sĩ tử xưa
Ngoà i việc in sách (sách học, sách thuốc), dưới triửu đại phong kiến, triửu đình đã cho in lịch ghi rõ ngà y tốt, ngà y xấu, việc nên là m, việc không nên là m... theo quan niệm mê tín ngà y xưa và cũng ghi cả tình hình thời tiết trong năm như ngà y lập xuân, lập hạ, ngà y đại hà n, tiểu hà n, ngà y con nước...
Cà ng vử sau nà y, nghử in bản khắc gỗ không chỉ dùng để in sách, in lịch mà còn dùng để in tranh Tết. Tại kinh thà nh Thăng Long có phố Hà ng Trống nổi tiếng với những bức tranh khắc gỗ nhưng đường nét vô cùng điêu luyện. Sở dĩ tranh Hà ng Trống đạt được trình độ thẩm mử¹ cao bởi nghệ nhân vẽ tranh chỉ dùng bản in khắc gỗ để in phần nét của tranh, còn mà u của tranh chính là do các nghệ nhân sử dụng phẩm mà u để trực tiếp tô lên tranh, tạo ra sự mửm mại, chân thực của bức tranh.
Cho đến đầu thế kỷ XX, khi nghử in chữ rời đúc bằng kim loại ra đời thì ở nước ta vẫn còn nhiửu cửa hiệu in sách bằng bản khắc gỗ. Các sách thơ văn, sách nhạc, truyện Kiửu, truyện Nôm dân gian... khi xưa đửu được in bằng bản khắc gỗ. Có những loại sách in bằng chữ Hán, chữ Nôm hoặc in chữ Hán có phụ chú bằng chữ Nôm.
Không những người thợ in sách bằng bản khắc gỗ mà họ còn nắm được kử¹ thuật in chữ rời bằng gỗ. Cuốn sách cổ xưa nhất in chữ rời bằng gỗ còn lại đến ngà y nay là sách Truyửn kử³ mạn lục của Nguyễn Dữ bản in đử năm Vĩnh Thịnh thứ 8 triửu Lê (1712).
Thợ in sách khắc gỗ ở Hà Nội, Nam Định... có nhiửu người quê ở hai là ng Hồng Liễu và Liễu Trà ng thuộc huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Họ thử Lương Như Hộc là m tổ sư nghử in. Lương Như Hộc là người là ng Hồng Liễu, đỗ Thám Hoa dưới thời vua Lê Thánh Tông và hai lần ông được cử đi sứ nhà Minh. Tương truyửn ông học phương pháp in sách của thợ Trung Quốc trong thời gian đi sứ, khi vử ông dạy cho người là ng nghử khắc gỗ các bản in kinh, sách để bán cho nhân dân. Nhân dân là ng Liễu Trà ng cùng huyện cũng học được nghử đó. Tuy nhiên, qua các tà i liệu sử cũ thì rõ rà ng Lương Như Hộc không phải là người đầu tiên truyửn bá nghử in ở nước ta mà ông chỉ góp phần là m cho thuật in ấn của nước ta ngà y cà ng phổ biến.
Có thể nói, nghử là m giấy và nghử in đất kinh kử³ được ra đời và phát triển trước tiên do nhu cầu của triửu đình phong kiến dùng để in kinh Phật và các loại sách giảng dạy trong trường học, sau đó là để bảo lưu những tác phẩm văn chương có giá trị, những tác phẩm nghệ thuật mang tính thẩm mử¹ cao. Và không thể phủ nhận nghử là m giấy và nghử in đã góp phần không nhử là m nên sự phong phú cho các nghử thủ công truyửn thống tại kinh thà nh Thăng Long, thể hiện được tà i năng của những con người tà i hoa hội tụ tại vùng đất kinh kử³ ngà n năm văn hiến.