Hệ lụy của tham nhũng trong giáo dục rất lớn, lâu dà i... cho dù là giá trị tham nhũng không lớn. Mặt khác, việc phát hiện và xử lý hà nh vi tham nhũng trong lĩnh vực giáo dục cũng rất khó khăn, phức tạp vì nó dễ bị che giấu giữa cái tích cực với cái tiêu cực, giữa cái thực với cái giả, nó có sự thửa hiệp vử lợi ích giữa đối tượng tham nhũng với bị tham nhũng.
Từ 3 hiện tượng...
Theo ông Trần Đức Lượng, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, 3 hiện tượng ẩn chứa nguy cơ tham nhũng được lựa chọn để khảo sát thực trạng, gồm: tuyển sinh đầu cấp, dạy thêm và thu phí ngoà i quy định. Không ít người cho rằng nguy cơ tác hại của tham nhũng không gói gọn ở 3 vấn đử nêu trên mà xảy ra ở các cấp quản lý nhà nước, ngà nh giáo dục trong nhiửu lĩnh vực từ hoạch định chính sách, phân phối kinh phí đầu tư, xây dựng cơ bản trường sở, sách giáo khoa (SGK), đồ dùng dạy học..., rồi mới đến chạy trường chạy lớp, mua bằng bán điểm, bán đử thi...
Đấu tranh chống tham nhũng phải bắt đầu từ những chủ trương chính sách rõ rà ng, ở các cấp quản lý giáo dục từ trên xuống đến nhà trường. |
Có thể nói, nguồn để xây dựng và phát triển giáo dục rất đa dạng, phong phú (ngoà i nguồn lực ngân sách nhà nước còn ngân sách của xã hội như học phí, quử¹ khuyến học, phát hà nh xổ số kiến thiết xây dựng trường học, sử dụng vốn vay của nước ngoà i...) nên rất khó kiểm tra, kiểm soát. Đây là kẽ hở để tham nhũng phát triển. Ở cấp Bộ, việc xà xẻo kinh phí còn thông qua chính sách độc quyửn vử biên soạn chương trình SGK. Chương trình SGK đổi mới xoà nh xoạch, điển hình là hơn 20 năm tiến hà nh phân ban đã tốn hà ng ngà n tỷ đồng để biên soạn SGK. Nhân dân thì rất sợ nói đến cải cách giáo dục, nhưng có cải cách, đổi mới chương trình thì người độc quyửn vử SGK mới trở nên già u có.
Ngoà i SGK là việc mua sắm đồ dùng thí nghiệm với cơ chế độc quyửn của các công ty thuộc bộ, sở tha hồ mua bán các đồ dùng dạy học kém chất lượng, không đồng bộ, không sử dụng để thực hà nh thí nghiệm hay thí nghiệm chứng minh. Có thể nói bất kử³ khoản đầu tư nà o từ trung ương rót vử tới cơ sở đửu bị xà xẻo, đặc biệt là kinh phí các chương trình mục tiêu, đử án, dự án. Mấy năm qua, số học sinh tiểu học đã giảm từ trên 10 triệu em năm 2000 còn hơn 6,7 triệu em năm 2009. Vậy số tiửn dư ra do số học sinh giảm đi (hơn ba triệu) đã chi tiêu như thế nà o (khoảng 12.000 tỷ đồng một năm). Ba năm qua, số học sinh THCS cũng giảm hơn một triệu em và số học sinh THPT cũng giảm, nên số tiửn dư ra và o khoảng trên 5.000 tỷ đồng, trong khi đó kinh phí dà nh cho giáo dục vẫn tăng lên.
... Đến sự lãng phí
Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước, từng phát biểu: Có người than vãn rằng ngà nh giáo dục không đủ điửu kiện để là m cho giáo dục có chất lượng hơn, nhưng cũng có người đưa ra được bằng chứng giáo dục lãng phí vô cùng. Bây giử tôi chỉ mong ngà nh giáo dục thử tính toán cái gì cần mà giáo dục chưa có, cái gì giáo dục lãng phí. Tôi nghĩ trước khi nói học phí cao thì nên là m minh bạch cái nà y... Bà Nguyễn Thị Bình còn dẫn chứng: Tôi từng biết rất cụ thể: một em học sinh phổ thông ở nông thôn ba năm học tiếng Pháp mà không biết chữ nà o, mỗi lần kiểm tra nộp cho giáo viên 10.000 đồng là "qua" (Tuần Việt Nam ngà y 20/8/2009).
Ở cấp trường thì tình trạng tham nhũng diễn ra thiên hình vạn trạng, từ chuyện bớt khẩu phần ăn hằng ngà y của các cháu nhà trẻ, đến việc lạm thu các khoản tiửn vử xây dựng cơ sở vật chất, học phí, chạy trường chạy lớp, tiửn mua bằng, bán điểm... Bộ GD-ĐT cũng không quản lý nổi việc thu chi của các trường, nên yêu cầu các trường đại học, cao đẳng, TCCN kể cả trường phổ thông phải công khai tà i chính. Nhưng có ai kiểm soát, kiểm tra được việc nà y, nên biện pháp nà y cũng chỉ là đối phó với dư luận xã hội.
Suy cho cùng, ngà nh giáo dục có hai nhiệm vụ phải là m để chống lại quốc nạn tham nhũng: Một là đưa môn học chống tham nhũng và o trong nhà trường các cấp. Hai là kiên quyết đấu tranh và xử lý kịp thời tình trạng tham nhũng trong ngà nh với bất kử³ hình thức nà o.