Thà nh quả tạo dựng thời Lý
Như sử sách đã ghi, vua Lý Thái Tổ hạ Chiếu dời đô từ Hoa Lư ra Đại La , đổi tên là Thăng Long từ năm 1010. Thời kử³ ấy, địa thế Đại La vốn là một vùng trũng. Sự đi lại, vận chuyển chủ yếu phải dựa và o thuyửn bè, có rất nhiửu bến bãi: Bến Thái Cực (phố Hà ng Đà o ngà y nay), bến Thái Tổ, bến Triửu Đông, bến Thiên Thu, bến Giang Tần, bến Hà Khẩu (Hà ng Buồm ngà y nay)...
Thời vua Lý Thái Tông (1028-1054) những người dân nghèo từ là ng Lệ Mật (huyện Gia Lâm ngà y nay) vượt Nhĩ Hà (tức sông Hồng) sang khai hoang ở phía Tây kinh thà nh Thăng Long đã biến vùng rừng rậm, đầm lầy thà nh khu Thập Tam Trại ( 13 trại) là khu vực nông nghiệp quan trọng gồm các trại: Ngọc Hà , Đại Yên, Cống Vị, Thủ Lệ... (thuộc quận Ba Đình ngà y nay) để trồng lúa, rau, cây thuốc và hoa .
Sau đó, nhân dân ở các miửn quê lân cận cũng kéo nhau đến đây khai hoang, lập trại hoặc lập các phường thợ thủ công là m cho cư dân kinh đô ngà y cà ng đông vui và trù phú.
Đửn Quánh Thánh xưa
Thời Lý, ở kinh thà nh (tức và nh ngoà i Hoà ng thà nh) có 61 phường dân cư, nhiửu thợ thủ công là nh nghử, đặc biệt là thợ xây dựng đạt trình độ tinh xảo. Các phường vừa là nơi sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp vừa là nơi buôn bà n, tiêu thụ sản phẩm.
Ngoà i bốn cửa Hoà ng Thà nh có các chợ lớn theo cấu trúc trong thà nh, ngoà i thị. Trên sử sách có ghi các tên: chợ Đông , chợ Tây và chợ Nam. Chợ Đông lớn nhất thuộc phường Giang Khẩu nằm ở cửa sông Tô Lịch thông ra sông Cái ( khoảng giữa phố Hà ng Buồm và phố Hà ng Than ngà y nay)
Đầu năm 1028, vua Lý Thái Tông cho lập miếu Thần Đồng Cổ ( Trống Đồng). Hà ng năm, đến ngà y 4 tháng Tư âm lịch, tổ chức hội cho các quan thử trước thần rằng: Là m con chẳng hiếu/ Là m tôi chẳng trung/Thần minh chu diệt .
Năm 1049, vua Lý Thái Tông cho xây dựng chùa Một Cột tại vườn Tây Cấm (khu vườn ở mé Tây của Cấm Thà nh Thăng Long) gọi tên chữ là chùa Diên Hựu
Năm1057, vua Lý Thái Tông cho dựng tại chùa Sùng Khánh một ngọn tháp nổi tiếng vử chiửu cao, có tên là Tháp Báo Thiên. Tháp nà y cùng quả chuông Quy Điửn đã được xếp và o hà ng bốn công trình hạng nhất nước Đại Việt thuở ấy.
Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho xây Văn Miếu . Năm 1078 , vua Lý Nhân Tông cho dựng nhà Quốc Tử Giám ở sau Văn Miếu là trường Đại học đầu tiên của nước Đại Việt
Trong hơn 200 năm dưới vương triửu Lý , tại kinh đô Thăng Long đã xây dựng được nhiửu công trình to đẹp, khang trang ,xứng đáng là một đô thà nh mở nửn của kỷ nguyên văn hiến Đại Việt
Trải qua 1000 năm lịch sử , di tích của những công trình ấy còn lại quá ít ửi ! May thay , còn sót lại Văn Miếu , Quốc Tử Giám , chùà Diên Hựu ( Một Cột) ...và một và i ngôi chùa được xây dựng dưới triửu Lý . Còn hầu như dấu tích công trình của bao thế hệ người Thăng Long xưa đửu đã bị tiêu tan.
Nỗi đau chung của cả đân tộc
Đến thời tà n của triửu Lý, trong khoảng và i chục năm đầu thế kỷ 13 , nội chiến xẩy ra liên miên giữa các tập đoà n phong kiến rồi xung đột nổ ra tại đế đô là m cho cung điện trong khu Hoà ng Thà nh bị thiêu hủy gần hết. Đến nỗi, năm 1214, cung thất nhiửu nơi bị đốt, vua và Hoà ng gia phải trú ở nhà tranh gần cầu Thái Hòa . Đến năm 1216 , thảo điện ( là m bằng tranh , tre, nứa ,lá) phải dựng ở Tây Phù Liệt (nay là là ng Sét ở quận Hoà ng Mai).
Từ đầu năm 1225, nhà Trần lên ngôi đã bắt tay và o sửa sang xây dựng khu vực Hoà ng Thà nh. Năm 1230 xây dựng nơi thiết triửu gồm một số cung điện, lầu gác. Còn khu vực kinh thà nh của dân cư thì dưới triửu Trần không có gì khác so với thời Lý.
Cuối đời Trần, kinh đô Thăng Long lại tiếp tục bị giặc giã cướp phá, thiêu đốt , đổ nát tan hoang.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi, ông ta không những không sửa sang xây dựng gì cho Thăng Long mà còn phá nốt những cung điện sót lại ở kinh đô, lấy nguyên vật liệu đem và o xây dựng kinh đô mới ở Thanh Hóa .
Sau đó 6 năm, giặc Minh sang xâm lược nước ta. Thăng Long bị chiếm đóng trong 22 năm liửn. Quân tướng giặc Minh hủy hoại nhiửu chùa, tháp , đửn, miếu... lấy những cổ vật bằng đồng quý như đỉnh tháp Báo Thiên, chuông Quy Điửn đem đúc vũ khí. Đến thời kử³ nà y, hầu hết những công trình kiến trúc của Thăng Long từ thế kỷ 11, thế kỷ 12 đửu bị phá trơ trụi .
Thà nh Thăng Long xưa
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, đổi tên Thăng Long thà nh Đông Đô ,đến cuối năm1430 lại gọi là Đông Kinh.
Từ đó, trong suốt 400 năm các triửu vua Lê kế tiếp đã xây dựng lại kinh đô Thăng Long ngà y cà ng rộng lớn, đẹp đẽ và sầm uất với hà ng trăm cung điện.
Nhưng tiếc thay! đến cuối thế kỷ 18, cuộc tranh chấp quyửn bính giữa vua Lê và chúa Trịnh đã dẫn tới cuộc tương tà n dữ dội trên đất Thăng Long.
Ngà y mồng Tám tháng Chạp năm Bính Ngọ ( đầu năm 1787 ), Lê Chiêu Thống sai người phóng hửa đốt hết Phủ Chúa, đám cháy kéo dà i trên 10 ngà y chưa tắt . Thế là lâu đà i, cung điện xây dựng trong mấy trăm năm bỗng chốc hóa thà nh bãi đất cháy đen ( trích Hoà ng Lê nhất thống chí ). Dưới chính quyửn Tây Sơn (1788-1802),Thăng Long có được sửa sang ít nhiửu song vử cơ bản kinh đô không có gì khác trước .
Năm 1802, triửu đại Tây Sơn bị diệt vong, cả nước thuộc quyửn thống trị của triửu Nguyễn, kinh đô bị dời và o Phú Xuân (Huế) . Từ đó, Thăng Long chỉ còn là trấn thà nh, sau đó là tỉnh thà nh.
Năm 1803, vua Gia Long cho triệt phá Hoà ng Thà nh cũ.
Trên nửn đất ấy xây một thà nh mới theo kiểu Vôbăng (Vauban- một kiểu thà nh của Pháp thế kỷ 18) . So với Hoà ng Thà nh trước, thà nh mới nhử hẹp hơn rất nhiửu , mỗi bử chỉ khoảng 1km
Năm 1812, dựng cột cử hình 6 cạnh,xây bằng gạch gốm ở phía Nam thà nh , vẫn còn đến ngà y nay.
Năm 1831,vua Minh Mệnh sáp nhập huyện Từ Liêm , phủ ứng Hòa ,phủ Lý Nhân , phủ Thường Tín và o Thăng Long và lập ra tỉnh Hà Nội .
Năm 1848, vua Tự Đức sai phá dỡ cung điện trong Hoà ng Thà nh lấy các đồ chạm trổ mử¹ thuật bắng gỗ, đá đem vử Huế, coi như nhà Nguyễn xóa sổ Thăng Long sau hơn 8 thế kỷ xây dựng trải bao chặng thăng trầm.