Tuy không nằm trong văn bản nhà nước của các triửu đại, song từ Kẻ Chợ có một nét đặc sắc riêng và xét vử mặt ngôn ngữ, từ nà y cũng tiửm ẩn nhiửu nhân tố lịch sử, văn hoá, phong tục... cần xem xét.
Tôi rất ngạc nhiên khi tra cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ, còn gọi Từ điển Việt - Bồ - La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes xuất bản tại Roma, 1651 (NXB Khoa học xã hội in lại, có chú giải, 1991) đã có từ Kẻ Chợ độc đáo nà y.
Mục từ Kẻ được A. de Rhodes giải nghĩa: "Những người, chỉ dùng nói vử người ta khi nói cách không kính trọng. Kẻ chợ: Những người ở trong chợ, nghĩa là những người ở kinh đô Đông Kinh" (tr.123, phần Phụ lục tiếng Việt).
Như vậy, nếu căn cứ và o cái mốc của tà i liệu trên thì tên gọi Kẻ Chợ xuất hiện ít nhất là từ thế kỉ 17. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2 (NXB Từ điển Bách khoa, 2002) đưa ra 2 thời điểm khác nhau vử xuất xứ tên gọi Kẻ Chợ. Trang 180 (mục từ Hà Nội) ghi là "cuối thế kỉ 16" còn ở trang 462 (mục từ Kẻ Chợ) ghi: "Trong những thế kỉ 17-18, các nhà buôn và giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam thường gọi Thăng Long là Kẻ Chợ".
Cũng theo sách nà y, đây là "tên gọi dân gian kinh thà nh Thăng Long ngà y xưa. Theo nghĩa hẹp, chỉ khu phố phường dân cư của kinh thà nh thời Lê - Trịnh, phân biệt với khu hoà ng thà nh của vua quan". Chợ là nơi kinh doanh, buôn bán mọi mặt hà ng hoá (với hà ng loạt các phố "hà ng" khác nhau) ở Hà Nội xưa. Vấn đử là , kẻ trong Kẻ Chợ chỉ người hay chỉ nơi chốn?
Từ điển từ cổ (Vương Lộc, NXB Đà Nẵng, 2001) cho kẻ là từ chỉ nơi chốn. Theo ông, kẻ được chia thà nh 2 nghĩa:
1. Nơi, chốn. "Xưa nay mấy kẻ binh đao" (CPN b.Dc.101). "Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta" (Nguyễn Công Trứ - Thế tình đối với người nghèo).
2. Từ thường đặt trước một địa danh để gọi một đơn vị cư trú tương đương với xã, thôn; cũng có khi là một đơn vị cư trú lớn hơn. "Sử rao đến Tiên Du nà y/ Đến là ng Kẻ Đống vử rà y hôm mai" (TNNL c.287-288). "Ta ở Kẻ Láng vốn nhà trồng rau" (cd.). "Đồn rằng Kẻ Lạng vui thay" (cd.) (tr.84).
3. Cũng theo cách cắt nghĩa nà y, từ kẻ chợ (không viết hoa) được giải thích là nơi đô thị, thường dùng để chỉ kinh đô Thăng Long hoặc chỉ kinh đô nói chung. Như thế, kẻ chợ được dùng với ngoại diên rộng hơn nhiửu (Vd: có kẻ chợ Việt Nam, kẻ chợ Bắc Kinh, kẻ chợ Pháp, kẻ chợ Portugal (Bồ Đà o Nha),...).
Nhưng có lẽ, kẻ trong kẻ chợ đầu tiên được sử dụng với hà m ý chỉ người. Kẻ có thể là "1 người hoặc những người như thế nà o đó, nhưng không nói cụ thể là ai" hoặc có thể là "2. Người hoặc những người như thế nà o đó, không nói cụ thể là ai, nhưng hà m ý coi thường, coi khinh" (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2007, tr.740).
Có lẽ, đầu tiên người ta dùng kẻ trong Kẻ Chợ với nghĩa 1 (giống như trong kẻ ở người đi, kẻ Bắc người Nam, kẻ cắp, kẻ sĩ,... ), mặc dù có hơi nghiêng vử nghĩa 2 (hà m ý không được coi trọng, vì dân thương gia, buôn bán hẳn không phải là những người có thứ bậc cao trong xã hội).
Sau đó, kẻ tiếp tục phái sinh nghĩa, chỉ nơi chốn của một cộng đồng người nà o đó, có nét đặc thù riêng. Vì thế, ta có kẻ chợ, kẻ quê, kẻ Sặt, kẻ Noi, kẻ Mơ, kẻ Láng, kẻ Đông,...
Có vẻ nơi nà o cũng được ghép với kẻ được. Ở các từ nà y, nghĩa chỉ người và nghĩa chỉ một vùng địa danh có sự hoà kết tạo nên một nét nghĩa tổng quát. Kẻ Chợ (Hà Nội) là một tổ hợp mang đậm cách dùng nà y. Lúc đầu chỉ là để phân biệt 2 khu vực trong kinh thà nh (một nơi của dân buôn bán, xô bồ dân dã; một nơi là hoà ng thà nh của vua chúa, đẹp đẽ nghiêm cẩn). Mặc dù, trong quá trình sử dụng, nét nghĩa chỉ địa danh dần dần trở thà nh nét trội. Chẳng hạn ta vẫn nghe nói: dân Kẻ Chợ, đất Kẻ Chợ, vùng Kẻ Chợ, văn hoá Kẻ Chợ...
Tuy chỉ là một cách nói dân dã, nôm na song cà ng ngà y Kẻ Chợ cà ng trở nên đắc dụng do sự độc đáo, gây sự chú ý vử ngôn từ. Đặc biệt, nó được coi như một dấu tích ngôn ngữ "hoá thạch" của một thời, phản ánh chân thực một hoạt động quan trọng, chủ yếu, phổ biến của mảnh đất kinh kì Thăng Long từ xưa đến nay, khi nơi đây trở thà nh một địa điểm sản xuất, buôn bán, lưu thông các sản phẩm hà ng hoá... nhộn nhịp, sầm uất: "Chà ng vử Kẻ Chợ thăm thầy/ Nhớ mua cau đậu trầu cay cho nà ng" (ca dao).