Anh đang ngồi đọc tập bản thảo đánh máy mửng pơ-luya. Nhà thơ Trúc Thông giới thiệu với tôi: Kim à , đây là anh Hữu Thỉnh - bạn mình - nhà thơ và là đại úy Bộ tư lệnh thiết giáp đến chơi. Tay bắt mặt mừng, Hữu Thỉnh nói chuyện với tôi thật cởi mở. Hóa ra, tập bản thảo anh đang đọc là tập Lá Cử của nhà thơ Oan Wuytman - nhà thơ Mử¹. Bản thảo chưa in thà nh sách, truyửn tay nhau đọc trong giới bạn bè là m thơ thuở ấy. Sau nà y, khi gặp lại, Hữu Thỉnh thường "kiểm tra" trí nhớ của tôi cái lần gặp đầu tiên khó quên ấy.
Lại nữa, tôi có kỷ niệm với riêng anh trong khi biên soạn cuốn Ai vử Kinh Bắc (NXB Thanh Niên - 2000). Bà i Chiửu sông Thương được đông đảo bạn đọc yêu thơ nhắc đến, đọc và thuộc, trong đó có những câu thơ thật gợi: Dùng dằng hoa quan họ - Nở tím bử sông Thương. Bà i nà y nhà thơ Hữu Thỉnh viết cách đây hơn 30 năm trên một chuyến tà u đêm. Hồi ấy, anh lên Ty văn hóa Hà Bắc sơ tán ở xóm Chùa, xã Tân Mử¹ - Yên Dũng liên hệ đón đoà n văn công quan họ vử biểu diễn ở Bộ Tư lệnh Binh chủng thiết giáp.
Việc đơn vị giao không thà nh (Đoà n nghệ thuật quan họ đi theo kế hoạch là m phim của xưởng phim truyện Việt Nam). Nhưng bà i thơ bù lại chuyến đi vất vả của anh. Sau bà i thơ Chiửu sông Thương tác giả đã dứt khoát lựa chọn theo hướng tiếp nhận và chuyển hóa mạch nguồn văn hóa dân gian để tạo nên bản sắc riêng cho thơ mình. Được anh kể lại những gì có liên quan, tôi đã chọn và bình bà i thơ nà y.
Nhà thơ Hữu Thỉnh có trí nhớ và sự mẫn cảm khá đặc biệt chẳng phải riêng gì tôi, bạn bè trong giới văn học thán phục mỗi khi gặp anh, Hữu Thỉnh nhắc lại những kỷ niệm tươi rói như mới hôm qua, hôm kia... Hữu Thỉnh cẩn trọng trong công việc, chí nghĩa chí tình trong quan hệ bạn bè, đồng nghiệp nên nhiửu người quý và nể anh. Theo tôi, hình như ẩn giấu đằng sau con người quản lý với cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam còn là một hồn thơ Hữu Thỉnh với nhiửu da diết, đắm say, nặng lòng với thơ:
Em ở kử bên hoa trước mặt/Ngà y mai thương nhớ đã qua trời
(Ấm lạnh)
của những xao động trong lòng:
Trời biết ta xa cách/Soi biển, soi không đà nh/Xuân vử chưa đủ lá/Mưa ẩm cả hồn anh
(Tám câu)
Đằng sau một người lính dầy dạn trận mạc vẫn là tấm lòng đồng đội sẻ chia:
Anh vịn và o tiếng hát vượt gian lao/Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá/Tiếng hát đi rồi căn hầm ở đó/Thà nh chiếc hộp đà n giữa lòng đất âm sâu
(Tiếng hát trong rừng)
của những nhắn nhủ ân tình:
Trong cuộc chiến tranh nà y/Đừng để ngượng với nhau khi gặp mặt
(à nghĩ không vần)
Đằng sau nỗi lòng của người con trai xa nhà đánh giặc vẫn không nguôi ngoai nhớ vử mẹ già trong căn nhà bé nhử - hà nh trang suốt cuộc đời anh:
Bước chân con chưa kín mảnh sân nhà /Phía biên giới lại những ngà y súng nổ/Ngôi nhà mẹ là chiếc ga bé nhử /Chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình
(Ngôi nhà của mẹ)
Nhà thơ Hữu Thỉnh
của những nghẹn thắt mất mát người thân trong từng mảnh đất:
Anh không giữ cho mình dù chỉ là ngọn cử /Đất thì rộng anh không vuông đất nhử/Đất và trời Phan Thiết có anh tôi
(Phan Thiết có anh tôi)
Duyên kử³ ngộ của tôi với nhà thơ Hữu Thỉnh - có thể trực tiếp hoặc gián tiếp - đửu có những nguyên cớ. Hồi công tác ở báo Hà Bắc, tôi thân với anh Đỗ Tuân vốn là bạn học với anh Hữu Thỉnh hồi còn phổ thông (anh đã mất bởi một căn bệnh trọng). Biết tôi là m thơ, lại cùng là m việc ở phòng tòa soạn, anh thường gọi tôi sang uống trà , nhâm nhi chén rượu hoặc phập phèo điếu thuốc. Chuyện nhà , chuyện công việc, chuyện bếp núc tòa soạn... vòng vèo thế nà o anh cũng đửu trở lại chuyện quê, chuyện chiến trường, chuyện những năm thiếu thời... nhất là chuyện thơ.
Anh Tuân kể: - Hữu Thỉnh ham đọc sách, có được đồng nà o anh đửu mua sách, đọc ngấu nghiến. Nhà anh xa lại trọ học, ở cùng phòng với anh Thỉnh nên thương nhau lắm! Có những đêm khuya trong ánh đèn le lói, anh nhìn thấy Hữu Thỉnh ra đứng dưới loa phóng thanh nghe hết buổi tiếng thơ của Đà i tiếng nói Việt Nam mới vử, người ướt đẫm sương khuya.
Ra Hà Nội công tác, anh đến tòa soạn báo Văn nghệ thăm bạn cũ, Hữu Thỉnh bử cả buổi tiếp anh, hà n huyên với anh vẫn như đôi bạn cùng trường Tô Hiệu - Vĩnh Yên ngà y nà o. Ngà y ấy, anh Đỗ Tuân là Hiệu đoà n trưởng phụ trách học tập, Hữu Thỉnh là Hiệu đoà n phó phụ trách văn thể. Cả hai người đửu yêu văn và học giửi môn văn. Riêng anh Đỗ Tuân thì học đửu cả văn và toán. Còn Hữu Thỉnh thì lệch hẳn sang văn. Và họ đửu rất nghèo. Anh Đỗ Tuân nhắc mãi những mo cơm nắm và những đôi guốc mộc thuở hà n vi...
Năm tháng gian khó cứ thấm và o anh như "tro vùi trong lửa" là m nên diện mạo đời và thơ Hữu Thỉnh. Anh hiểu được cái giá của sự hy sinh, của chia xa nên cũng thấm cái giá của đảo lộn cuộc sống, của người biết nỗi lo cho đời:
Chưa viết chợ đã đông/Chưa viết đồng đã bạc/Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa
(Tạp cảm)
Đá rơi hạt chắc đầu bông rụng/Ếch nhái kêu ran cử hội hè/Hạt lép vồng lên trương với gió/Đồng như canh bạc nước như mê
(Mưa đá)
và mỗi sớm mai anh tự tìm lời an ủi:
Buổi sáng thức dậy/Mùa đã qua, mùa đã qua/Những khung cây hoang vắng/Đi qua nhiửu mũ áo/Để tìm một bà n tay
(Buổi sáng thức dậy)
Tri âm ấy sao mà thiếu vắng là m vậy? Cả đời đi tìm mà cứ thấy ngút xa... cứ chập chửn như ảo ảnh trước mặt, như "cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay". Chợt thấy bóng hình nhà thơ nhẫn nại trong tư thế ấy, tư thế vừa ngẫm ngợi, vừa vấn hửi kiếp người:
Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay/Có mười ngón tay đếm đi đếm lại/Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiửu
Và anh ngộ được:
Chúng ta bị cái chết gạt vử một phía/Bị hư danh gạt vử một phía/Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười/Vừa bắt gặp nụ cười/Thì lại nghe tiếng cuốc
(Nghe tiếng cuốc kêu)
Cũng vì duyên kử³ ngộ, tôi mới thấy ra một điửu ngỡ như đơn giản: "Người là m sao chiêm bao là m vậy". Người và Thơ trong Hữu Thỉnh nhất quán nhau. Hiện nay anh là người phụ trách cao nhất Hội Nhà văn Việt Nam, đôi khi được lòng người nà y, mất lòng người kia là điửu khó tránh khửi. Nhưng Hữu Thỉnh biết chăm chút vì sự sáng tạo của các nhà văn (trong phạm vi có thể). Anh đã từng hiểu sự nhọc nhằn và vinh nhục của nghử văn. Và anh vẫn đang lặng lẽ theo đuổi cái nghiệp ấy, mặc dù thời gian để dà nh cho sáng tác ít hơn. Mặc dù bận rộn trong công việc điửu hà nh Hội, anh vẫn âm thầm là m thơ. Thơ là nghiệp chướng mà . "Đã mang cái nghiệp và o thân". Thi hà o Nguyễn Du đã dạy rồi. Đố có sai...