Bị bắt phải là m chồng ở cù lao à”ng Chưởng
Cù lao à”ng Chưởng là một địa danh nay thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, trước kia vốn được gọi bằng nhiửu tên khác nhau như cồn Cây Sao, cù lao Sao Mộc, cù lao Tiêu Mộc hoặc châu Sao Mộc.
Theo sách sử, tháng 2 năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 “ 1725) sai Trấn thủ Bình Khương (Nha Trang) là Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) giữ chức Thống suất và o kinh lược vùng đất Thủy Chân Lạp, nơi mà chúa đã cho các di thần nhà Minh không chịu thần phục tân triửu nhà Thanh đến đó cư trú, xin là m dân nước Việt.
Lúc bấy giử, vử mặt hà nh chính, Nguyễn Hữu Cảnh đã lấy đất Nông Nại đặt là m Gia Định phủ, đến xứ Đồng Nai lập huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa ngà y nay) và lấy xứ Sà i Côn là m huyện Tân Binh, dựng dinh Phiên Trấn (TP HCM ngà y nay)...
Mỗi dinh, ông cho đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để quản trị; nha thuộc có hai ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng, dưới quyửn quan Ký lục) và Lại ty (coi việc tà i chính, do quan Cai bộ đứng đầu). Vử quân binh thì chia là m các cơ, đội, thuyửn, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ.
Vua Gia Long thời trẻ. |
Vừa thiết lập bộ máy quản lý, Nguyễn Hữu Cảnh còn ra sức ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm là ng, quy tụ người bản địa và chiêu mộ lưu dân từ khắp nơi để đặt ra phường, ấp, xã, thôn gồm người Việt, Hoa, Khmer, cho khai khẩn ruộng đất, chuẩn định thuế đinh, điửn và lập bộ tịch đinh điửn.
Mặt khác, ông cho quân đi tiễu trừ các toán giặc cướp, sau đó đưa quân vử đóng ở cồn Cây Sao rồi báo tin vử Phú Xuân cho chúa Nguyễn biết. Vì lập công lớn, Nguyễn Hữu Cảnh được phong là m Chưởng Cơ, tước Lễ Thà nh Hầu.
Còn nhân dân khắp nơi đã thể hiện sự tri ân tôn kính của mình đối với ông, họ lập đửn thử phụng, trong ngôn ngữ hằng ngà y kiêng nhắc đến chữ Cảnh, chữ Kính và nói trại đi là kiểng, kiếng và gọi một cách tôn kính là Quan Chưởng Cơ.
Danh xưng nà y được đặt cho một số địa danh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đi và o ca dao, như cù lao Sao Mộc, nơi ông từng đóng quân ở đó được gọi là cù lao à”ng Chưởng: Lắng nghe quạ nói với diửu/Cù lao à”ng Chưởng có nhiửu cá tôm.
Câu ca dao nà y có một số dị bản, nó được gắn với một giai thoại lạ lùng vử thời gian chúa Nguyễn Phúc ành đến nương náu tại vùng cù lao à”ng Chưởng.
Theo một số sách như Việt Nam phong tình cổ lục, Kho tà ng giai thoại Việt Nam..., trong những ngà y đi lánh nạn, một lần chúa một mình trốn vử cù lao à”ng Chưởng. Vì ở nơi khác tới, để tránh tai mắt của triửu Tây Sơn nên Nguyễn Phúc ành phải náu mình trong một bụi rậm.
Bên bử sông, gần chỗ ông đang ẩn mình, có một cô thôn nữ trông xinh xắn đang lội bắt cá, quần áo lấm lem bùn đất mà không biết có người đang lặng nhìn theo mà tạm quên cái hoà n cảnh đau thương, thất cơ lỡ vận.
Bỗng nhiên, cô gái hét lên chới với vì bất ngử bị thụt xuống một hố sâu. Quên ngay cả chính bản thân mình đang bị lùng bắt, bất chấp nguy hiểm, Nguyễn Phúc ành vụt lao ra cứu.
Thế rồi, sau khi được cứu sống, cô gái nà y vì cảm kích cứ... nắm rịt lấy tay ông kéo vử nhà bắt... sống chung, vì theo tục lệ ở đây, khi người con gái nà o đã bị người con trai ôm rồi thì buộc phải lấy người đó là m chồng.
Cuộc tình duyên bất đắc dĩ nà y lại là sự may mắn, mở ra một đường sống cho chúa Nguyễn, nhử đó ông được nhà vợ giấu kín.
Đồng thời, ngà y ngà y, cô vợ và những người thân một mặt bắt tôm cá, mua thóc gạo vử nuôi vị chúa lỡ vận; mặt khác họ đi thăm dò, tìm kiếm giúp ông các cận thần đang lưu tán để tụ họp lại, bà n mưu tiếp tục sự nghiệp phục quốc.
Sống ở cù lao à”ng Chưởng một thời gian, Nguyễn Phúc ành từ biệt người vợ trẻ ra đi, tiếp tục dấn thân, bôn ba vì nghiệp lớn của mình. Nhưng sau nà y, khi đã lên ngôi hoà ng đế, đặt niên hiệu là Gia Long, nhà vua đã quên hẳn người con gái đã che chở, giúp đỡ mình năm xưa.
Dân gian trong vùng nghĩ tới chuyện đó mà ấm ức trong lòng, đặt thà nh câu ca dao cho trẻ hát rằng: Quạ bay và nói với diửu/Cù lao à”ng Chưởng thiếu gì cá tôm.
Ngoà i giai thoại nói trên, có một thuyết khác với phần kết có hậu hơn liên quan đến câu ca dao và chuyện tình của Gia Long với cô gái xứ cù lao à”ng Chưởng. Chuyện kể rằng vì thua trận, Nguyễn Phúc ành một thân một mình trốn đến cù lao à”ng Chưởng ở vùng Long Xuyên, đóng giả là m một ngư phủ để ẩn thân.
Khi chạy đến bử sông nhưng không có thuyửn, lo lắng, sợ rằng có quân Tây Sơn đuổi phía sau, trước tình cảnh đó, ông không biết là m sao, ngước lên trời một cách tuyệt vọng thì thấy một bầy quạ và diửu hâu bay lượn trên không, buồn bã mà ngâm một câu thơ: Bâng khuâng quạ nói với diửu/Cù lao à”ng Chưởng lại nhiửu cá tôm.
May mắn thay, lúc đó có một ngư thuyửn nhử, theo kinh nghiệm thấy khúc sông nà o có nhiửu chim bay lượn ắt có nhiửu cá, liửn tìm đến thả lưới đánh bắt. Nhử chủ nhân của chiếc thuyửn ấy mà Nguyễn Phúc ành được quá giang qua sông để thoát nạn.
Khi đến giữa sông, bỗng mọi người nghe thấy có tiếng kêu cứu của một cô gái đi trên chiếc xuồng vì gặp dòng nước mạnh nên bị lật.
Vừa thoát khửi hiểm nguy, lại gặp ngay người trong cảnh cận kử cái chết, Nguyễn Phúc ành can đảm lội lại gần xuồng cứu thiếu nữ. Cô gái đó tên là Trần Thị Tố Lan, con một nhà Nho trong vùng tên là Trần Đạt.
Cảm ngộ ơn cứu mạng, Tố Lan đã đưa Phúc ành vử nhà đãi đằng tạ ơn. Gia đình cô khi biết ân nhân chỉ có một mình mới đử nghị gả Tố Lan cho ông là m vợ. Nghĩ rằng chuyện xảy ra có lẽ là duyên trời sắp đặt, định trước; lúc ấy lại độc thân nên Nguyễn Phúc ành bằng lòng.
Thế là một đám cưới được tổ chức tại cù lao à”ng Chưởng giữa chúa Nguyễn thất thế với cô gái thường dân có cái tên rất đẹp - Tố Lan.
Sau khi phục quốc thà nh công, thu giang sơn vử một mối và trở thà nh hoà ng đế, Gia Long Nguyễn Phúc ành cho rước bà Tố Lan vử kinh đô, phong là m Chánh hậu. à”ng còn là m hai bà i thi nói vử đế hệ với mỗi chữ trong bà i là chữ lót tên cho mỗi thế hệ.
Những người do bà Chánh hậu sinh ra gọi là dòng chính, chữ lót đặt tên cho con cháu của dòng chính là : Mử¹ Duệ Tăng Cường Tráng/Liên Lý Phát Bội Hương/ Lịnh Nghi Hà ng Tốn Thực/ Quí Vọng Biểu Khôn Ngoan.
Còn những người con do các bà phi khác sinh ra gọi là dòng thứ, chữ lót đặt theo thứ tự là : Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh/ Bảo Quí Định Long Trường/ Hiửn Năng Kham Khế Thực/ Thế Thoại Quốc Gia Xương.
Vì là giai thoại nên khó có thể kiểm chứng phần nà o là sự thực, phần nà o là hư cấu, hay toà n bộ câu chuyện đửu do người đời sáng tạo nên.
Chỉ biết rằng nếu xét theo chính sử thì vua Gia Long có hai bà vợ chính, một người tên Lan (mang họ Tống) và một người họ Trần (tên Đang), có thể từ đó mà dân gian kết hợp lại, hư cấu thà nh một bà chính phi họ Trần tên Lan.
Còn vử hai bà i đế hệ thi dà nh cho dòng chính và dòng thứ, chắc là dựa và o sử sách mà chép thà nh vì và o năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đã là m một bà i Đế hệ thi dà nh cho con cháu ông và 10 bà i Phiên hệ thi dà nh cho con cháu 10 anh em trai của mình.
Bà i đế hệ dà nh cho dòng chính trong giai thoại nói trên thực ra là bà i Phiên hệ thi thứ nhất gọi là Anh Duệ hệ (dà nh cho con cháu Hoà ng tử Cảnh, anh trai vua Minh Mạng) nhưng chỉ khác một số chữ là Lý (thực ra là Huy), Hà ng (Hà m), Thực (Thuận), Qúy (Vử¹), Ngoan (Quang).
Bà i thi dòng thứ mà giai thoại nhắc đến thực ra lại là bà i Đế hệ thi của vua Minh Mạng để cho con cháu, nó khác một và i chữ là Hường (đúng là Hồng), Khế (Kế), Thực (Thuật).
Câu chuyện buồn trên quần đảo Côn Lôn
Trước khi già nh thắng lợi trong cuộc chiến với triửu Tây Sơn, lên ngôi xưng, đế lập ra nhà Nguyễn, Gia Long bấy giử chỉ là Nguyễn vương Phúc ành đã phải bao phen bôn ba tẩu quốc, chạy trốn khửi sự truy bắt của đối phương, nếm trải muôn và n đắng cay, khổ cực suốt 24 năm trời.
Năm Quý Mão (1783), bị Tây Sơn đánh đuổi, phải lẩn tránh ra các hải đảo ở vùng biển Đông Nam, Tây Nam, cuối cùng Nguyễn Phúc ành quyết định nhử Giám mục Bi Nhu, tức Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) đi cầu viện người Pháp và giao một người con trai của mình đi theo để là m tin.
Sử sách cho hay đó là người con trai trưởng của ông, tên là Nguyễn Phúc Cảnh. Tuy nhiên, theo dã sử ban đầu, Nguyễn vương định giữ Phúc Cảnh ở lại để sau nà y nối dòng chính thống, còn người con thứ là Nguyễn Phúc Hội An sẽ theo Bá Đa Lộc đi sang Pháp.
Tuy nhiên, dự định đó không thà nh vì đã xảy ra một việc ngoà i tính toán của Nguyễn Phúc ành, kết cục dẫn tới một bi kịch đau buồn mà ngà y nay còn đọng mãi trong câu câu hát ru: Ầu ơ... gió đưa cây cải vử trời/Rau răm ở lại chịu lời đắng cay....
Chuyện kể rằng, khi bị quân Tây Sơn đánh bại, Nguyễn Phúc ành phải dùng thuyửn chạy trốn ra Côn Đảo (một đảo lớn trong quần đảo Côn Lôn, còn gọi là Côn Sơn), gia quyến bị thất tán hết, chỉ có một người vợ thứ là Lê Thị Răm, hiệu là Phi Yến đi theo, bử tôi hầu cận cũng chẳng có mấy, chỉ còn khoảng 100 gia đình thuộc hạ đi cùng.
Để có chốn dung thân ổn định, Nguyễn Phúc ành đã sai người đi chiêu tập dân chà i đang sinh sống rải rác quanh Côn Sơn rồi lập nên 3 là ng An Hải, An Hội và Cử ửng.
Khi nghĩ đến việc đánh lại quân Tây Sơn, chúa Nguyễn thấy thế lực của mình không đủ sức, bèn cùng cận thần tính kế. Giám mục Bá Đa Lộc đử xuất đưa con của bà Phi Yến là Hội An (còn gọi là hoà ng tử Cải hay hoà ng tử Hiệp) theo mình mang ấn tín, quốc thư xin cầu viện nước Pháp.
Vốn là con nhà trâm anh, khuê các có học hà nh, khi biết được việc đó, bà Phi Yến cho rằng cầu viện người Tây Dương vử giúp đánh đuổi Tây Sơn khác nà o đưa sói cửa trước, rước hùm cửa sau nên hết lời khuyên nhủ, can ngăn chồng không nên là m theo cách ấy: Việc đánh nhau với Tây Sơn ta có thể coi như việc trong nhà , chúa công nên dung nghĩa binh trong nước thì hơn. Nếu nhử sức mạnh của người ngoà i để giải quyết vấn đử nội bộ thì dù ta có thắng Tây Sơn chăng nữa, cái thắng ấy cũng chẳng vẻ vang gì, thiếp e còn có lắm điửu rắc rối, tai tiếng vử sau.
Không những không nghe lời khuyên của vợ mà Nguyễn Phúc ành còn đùng đùng nổi giận, nghi bà có ẩn ý thông đồng với quân Tây Sơn, mới sai người đem ra chém đầu.
Không run sợ trước cái chết, bà Phi Yến vẫn không đồng ý cho hoà ng tử Cải đi là m con tin, không chấp nhận việc cầu viện để rồi sau sẽ bị lên án tội: Cõng rắn cắn gà nhà , rước voi vử già y mả tổ. Người dân Côn Đảo còn truyửn nhau câu thơ vử chuyện nà y như sau: Chuyện xưa nay kể lại rằng/Đức Bà Phi Yến khuyên can, ngăn chồng/Chuyện nhà chuyện nước đà ng trong/Chúa công xem lại hận lòng quốc gia/Mang tiếng: Cõng rắn vử cắn gà nhà /Cầu vinh bán nước... thiếp e là vử sau/Chỉ có mấy lời khuyên ấy!/Nguyễn ành nổi giận lôi đình/Nghi Bà Phi Yến cố tình nội công/Truyửn cho văn võ triửu đình/Đưa Bà Phi Yến hà nh hình tại đây.
Quần thần hoảng sợ trước sự tức giận đó, tất cả đửu cùng quử³ xin nhử vậy mà Phi Yến thoát khửi bị chém đầu. Nhưng Nguyễn vương vẫn chưa nguôi lòng, ông sai lính đưa người vợ trẻ của mình ra một hòn đảo hoang gần đó nhốt và o hang đá (hòn đảo đó vử sau được gọi là Hòn Bà ).
Cửa hang bị bịt bằng nhiửu tảng đá, còn bà Phi Yến bị nhốt bên trong chỉ với ít cơm gạo và một chum nước. May mắn là có con vượn bạch mà bà đã nuôi dườ¡ng từ trước khôn ngoan, thông minh, ở ngoà i hang, ngà y ngà y và o rừng đi tìm trái cây, quả chín vử nuôi chủ.
Khi nghe tin thuyửn chiến của Tây Sơn sắp đánh ra đảo, chúa Nguyễn Phúc ành sợ hãi mang theo hoà ng tử Cải rồi cùng bử tôi xuống thuyửn chạy vử hướng đảo Phú Quốc. Hoà ng tử lúc đó mới 5 tuổi, không thấy mẹ mới khóc thảm thiết, đòi cho mẹ đi cùng.
Trong cơn hoảng hốt lại tức giận, Nguyễn vương cho rằng con mình cũng một lòng phản trắc như vợ nên đã ném con xuống biển rồi thúc thuyửn chạy thẳng.
Bấy giử, có con hắc hổ mà hoà ng tử Cải nuôi luôn đi theo nửa bước chẳng rời, thấy chủ bị ném liửn lao theo xuống nước nhưng nước chảy mạnh, hoà ng tử bị chết chìm, còn hắc hổ bơi được và o bãi cạn.
Đến khi thủy triửu rút, thấy thi hà i hoà ng tử trôi và o bãi biển là ng Cử ửng, hắc hổ tha và o rồi bới đất đem chôn tại khu rừng gần bãi Đầm Trầu. Người dân biết tin rất thương tiếc, mới cùng nhau lập ngôi miếu trước mộ hoà ng tử để thử gọi là miếu Cậu, ngôi mộ được gọi là mả Cậu.
Truyửn thuyết kể rằng con hắc hổ ngà y và o rừng kiếm ăn, đêm vử nằm bên mộ chủ kêu gà o thảm thiết. Rồi một đêm, hắc hổ tìm được vượn trắng, chúng cứu bà Phi Yến ra khửi hang rồi đưa được bà đến mộ hoà ng tử Cải.
Đau xót, cảm thông trước tình cảnh ấy, dân là ng Cử ửng là m một ngôi nhà gần mộ đó để bà Phi Yến sớm hôm chăm sóc ngôi mộ đứa con bạc mệnh của mình, rồi họ đặt câu hát rằng: Gió đưa cây Cải vử trời/Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay.
Do nỗi nhớ con, nỗi đau cho vận nước nên Phi Yến ngà y cà ng héo hon, buồn bã. Bà đã là m nên bà i thơ để bà y tử tâm sự của mình: Đốt nén hương thử tạ chúa công/Can vua nên nỗi tội thông đồng/Ngai và ng một thuở ngồi chưa vững/Bia đá ngà n năm vết vẫn còn/Máu chảy ruột mửm đau phận thiếp/Nồi da xáo thịt thửa tình ông/Song sầu, núi thảm hoa mử lệ/Đã khóc cho con lại khóc chồng.
Một hôm, là ng An Hải cùng là ng Cử ửng tổ chức cuộc đà n chay khá lớn có thỉnh mời bà Phi Yến đến dự. Có một tên đồ tể người là ng An Hải là Biện Thi thấy Đức bà Phi Yến tuổi mới 25, dù trải bao khổ đau mà nhan sắc vẫn rực rỡ, tươi thắm, hắn nổi lòng tà dục, lẻn và o chỗ bà , nắm một cánh tay giở trò đồi bại thì bị phát hiện.
Con chết, chồng lưu vong không rõ tin tức, bà Phi Yến đã phải chịu nhiửu đau khổ, nay cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã vì bị xúc phạm thân thể nên đã dùng gươm chặt đứt cánh tay, sau đó tự tử để thủ tiết và giữ danh giá của mình.
Tức giận trước hà nh động của tên vô lại, người dân đã đem tên Biện Thi ra xử tội chết, còn thi hà i bà Phi Yến được đem an táng bên cạnh mộ của con trai. Thương cảm số phận của một bà hoà ng, hai là ng An Hải, Cử ửng đã lập miếu thử gọi là miếu Bà (tên khác là miếu An Sơn), được xây từ năm Ất Tị (1785).
Tương truyửn bà Phi Yến cùng hoà ng tử Cải thường hiển thánh hiện vử mách bảo điửm là nh, chuyện dữ sắp xảy ra nên người ta cho rằng miếu nà y rất linh thiêng với người dân trên đảo, lúc nà o miếu cũng nghi ngút khói hương thử phụng.
Các bậc kử³ lão và cư dân tại Côn Đảo còn truyửn tụng 4 câu thơ mà người xưa đã đử tặng tấm lòng trung liệt của bà Phi Yến như sau: Lòng đất chôn sâu niửm uất hận/Lưng trời đeo mãi vết tang thương/Thương người cương trực liửu thân thể/Trách kẻ tà dâm dạ khó lường.
Theo chính sử triửu Nguyễn và sách Nguyễn Phúc tộc thế phả thì vua Gia Long Nguyễn Phúc ành có tất cả 21 người vợ, 13 hoà ng tử và 18 hoà ng nữ. Nhưng cũng giống như trường hợp của bà Trần Thị Tố Lan, các tà i liệu nà y không thấy có dòng nà o ghi họ tên, lai lịch của bà Phi Yến (Lê Thị Răm) và hoà ng tử Hội An (hay hoà ng tử Cải) cả.
Một số ý kiến cho rằng đây chỉ là sự tưởng tượng, hư cấu của người đời chứ thực ra không có nhân vật Phi Yến và Hội An, chúa Nguyễn Phúc ành cũng chưa từng đặt chân đến đảo Côn Lôn mà hòn đảo đó là đảo Cổ Long (Koh Kong) nằm gần vùng biển Hà Tiên, cách đảo Phú Quốc không xa, do phiên âm Koh Kong sang Hán tự có sự nhầm lẫn mà thà nh Côn Lôn. Còn ngôi miếu An Sơn (miếu Bà ) vốn là nơi thử nữ thần bảo trợ cư dân miửn biển và hải đảo thường được tôn kính gọi là bà Chúa Tiên hoặc bà Chúa Ngọc.
Quan điểm khác thì cho rằng miếu thử Thủy Long Thánh Phi, một nữ thần sông nước có hai người con gọi là Cậu và Bà , và miếu Cậu chính là miếu thử một trong hai người con của nữ thần.
Trên đây là hai giai thoại vử chuyện tình của vị vua sáng lập nhà Nguyễn. Đã là giai thoại thì việc khảo chứng thật giả, đúng sai rất khó xác định bởi đó là những câu chuyện đi từ đời sống, gắn liửn với những con người thực, sự kiện thực nhưng vì được truyửn tải qua nhiửu bước (truyửn miệng, viết lại) nên được dân gian thêm bớt, phóng tác, sáng tạo những tình tiết lạ lùng, hà i hước thậm chí có thể trở thà nh hơi phi lý.
Theo các nhà nghiên cứu, giai thoại chính là sự bổ sung vử mặt lịch sử và văn hóa chính thống, giúp chúng ta có thêm cái nhìn vử con người, xã hội, sự kiện trong quá khứ theo một cách tiếp cận thú vị và hấp dẫn.