Đền Đồng Cổ ở bên sông Tô Lịch đường Thụy Khuê, thuộc làng Đông Xã, phường Bưởi, quận Tây Hồ (xưa là làng An Đông, phường An Thái, huyện Quảng Đức, ngoại thành Thăng Long).
Đền được xây dựng dưới triều vua thời Lý, trải qua bao năm tháng trước sự tàn phá khắc nghiệt của thiên nhiên và ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh Pháp, Mỹ, di tích bị biến đổi nhiều, kiến trúc cũ không còn nữa. Ngày nay, trên nền đất xưa là một ngôi đền xây theo kiểu chữ Đinh. Từ ngoài vào ta thấy:
Tam quan xây dựng theo lối kình thiên trụ, hai trụ cửa chính cao chừng 5m, trên có đắp hình trái giành cách điệu, rồng phượng. Hai mặt trước và sau cột trụ đắp các câu đối với nội dung ca ngợi công đức của thần:
- Bát diệt sơ, Đồng Cổ sơn ngôn, lịch đại bao phong lưu ngọc diệp.
Thiên tải hậu, Chu Bàn hải thệ, nhất tâm trung hiếu phụng kim chương.
Tạm dịch:
Tám đời vua, Đồng Cổ lời núi xưa, lịch đại bao phong lưu điển tích
Ngàn năm trải, Đàn Thề Biển chứng tỏ, một lòng trung hiếu ánh vàng son.
Trung tế là ngôi nhà ba gian xây kiểu tường hồi bít đốc đơn giản. Hệ thống kèo xà được bào trơn, ở bức ván bưng chính giữa các bức hoành phi lớn để bốn chữ: “Thiên cổ linh từ” (Đền thiêng muôn thuở).
Hậu cung nối liền với trung tế và tiền tế tạo thành kết cấu hình chữ công. Chính giữa là hương án thờ, trên đặt long ngai bài vị, áo mũ của thần Đồng Cổ. Năm 2001, đền có chiếc trống đồng mới đường kính 79cm, chiều cao 61.1cm, hai vành bên trong có 36 con chim lạc, 26 con nai quay đầu ngược chiều kim đồng hồ. Hai chiếc trống dựa theo phiên bản của trống Ngọc Lũ do tốp thợ đúc ở Ý Yên - Nam Định thực hiện. Một cái khác dâng vào đền Đồng Cổ (Đan Nê - Thanh Hóa).
Trong đền còn giữ được bản chữ Hán trích văn tế ghi rõ các ngày tế lễ của đền. Đền có 12 đạo sắc phong sớm nhất Cảnh Hưng năm thứ hai (1741) đạo muộn nhất và Thiệu Trị năm thứ chín (1849). Ngày 31/1/1992, đền Đồng Cổ đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận và xếp hạng là “Di tích lịch sử văn hóa”.
Xưa kia, vào triều đại Lý, Trần, Lê, đền từng là nơi long trọng tổ chức quốc lễ, Sách Viện điện u linh của Lý Tế Xuyên đầu thế kỷ XIV còn ghi lại sự tích:
Khi xưa thái tử Phật Mã (con vua Lý Thái Tổ) phụng mạng vua cha đem binh đi đánh Chiêm Thành (năm 1020) đến Trường Châu (dưới chân núi Khả Phòng, Thanh Hóa) đóng quân tạm nghỉ. Dưới chân núi có ngôi đền nhỏ, thờ một cỗ trống đồng lớn. Thái tử dâng hương xem trống. Canh ba đêm ấy, trong cõi mông lung, thái tử thấy một dị nhân mình cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mình mặc chiến bào, tay cầm binh khí, đến trước thái tử tâu rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử đi đánh phương Nam tôi theo giúp để phá giặc”. Thái tử vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy. Hôm sau tiến quân đến đất Chiêm, trận ấy quả nhiên đại thắng.
Khi khải hoàn về qua Trường Châu, thái tử liền sai quân sửa sang lễ tạ, rồi rước linh vị về kinh đô để giữ nước giúp dân. Đang chọn đất khắp nội, ngoại kinh thành, chưa biết nên lập đền chỗ nào cho tốt, thì một đêm thái tử lại thấy thần báo mộng: “Xin lập đền ở bên hữu, trong đại thành Đại La, sau chùa Thánh Thọ”. Thái tử theo lời, cho hưng công xây dựng, không bao lâu ngôi đền dựng xong.
Đến khi Lý Thái Tổ mất (năm 1028), thái tử lên nối ngôi, tức là Lý Thái Tông, đêm mộng thấy thần đền báo rằng: “Ba vị vương em là Vũ Đức, Đông Chính, Dực Thánh mưu làm phản, định đem giáp binh đến bao vây, xin nhà vua nên kịp đề phòng”. Vua thức dậy làm theo lời thần, quả nhiên sự mưu phản đúng lời như thần báo. Loạn tam vương được dẹp yên.
Vua rất lấy làm lạ, xuống chiếu phong thần là “Thiên hạ minh chủ” gia phong tước Đại Vương. Triều Trần năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) sắc phong là “Linh ứng Đại vương”. Năm Trùng Hưng thứ tư (1288) gia phong hai chữ “Chiêu Cảm”. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt (1313) gia phong hai chữ “Bảo Hựu”. Các triều vua nhà Lê, Tây Sơn, Nguyễn đều có ban sắc phong tặng.
Xưa, nhà Lý lấy ngày 25 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày hội thề. Ngày đó dựng đàn, cắm cờ xí trước thần vị. Ban đầu, vua cũng lấy ngày 25 tháng 3 tiến hành hội thề tại đền. Trước đền đắp một đàn cao, xung quanh cờ xí rợp trời, đội ngũ chỉnh tề, giáo gươm rợp đất. Giữa đàn là thần vị thần Đồng Cổ, lư hương nghi ngút, quan giám thệ điều khiển hội thề. Bách quan văn võ từ phía Đông đi vào đền, đến trước đàn quỳ trước thần vị và đọc lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh tru diệt”. Về sau vì ngày hội thề gần với ngày kỵ của một đức vua nên hội thề được chuyển sang ngày 4 tháng 4 âm lịch. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Hằng năm vào ngày 4 tháng 4, tể tướng và trăm quan, hồi gà gáy đến trực ngoài cửa thành, mờ mờ sáng vào triều. Vua ngự ở cửa Hữu Lang, trăm quan mặc nhung phục làm lễ lạy rồi lui ra, đầy đủ nghi trượng theo hầu, ra cửa Tây kinh thành, đến đền Đông Cổ họp nhau thề: “Làm tôi hết lòng trung, làm quan phải trong sạch, ai trái lời thề này, thần minh giết chết”.
Đọc xong tể tướng sai đóng cửa đền lại để điểm danh, người nào vắng mặt thì phạt 5 quan tiền. Ngày hôm ấy con trai, con gái bốn phương đổ về xem chật ních cả đường phố.
Thần tích đình Đông Xã ghi: Đạo quân do Vũ Công (cháu họ Tản Viên Sơn Thánh) và hai đạo do Bảo Công tiến vào huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên đi theo sông Tô. Ngày 13/2 âm lịch đến Đông Xá, phường An Thái, dân chúng biện lễ chúc mừng. Ba ông hội binh ở chợ Đông Xá. Sau đó Vũ Công mang quân vào đất Ái Châu - Hoan Châu. Dẹp được quân Thục rồi ông hóa ở động Đan Nê, núi Đồng Cổ sau thành thần núi Đồng Cổ.
Cho đến nay đền Đồng Cổ vẫn giữ được tục lệ hội thề “trung hiếu” truyền thống. Cứ ngày 4 tháng 4 âm lịch hằng năm, dân làng lại mở hội. Tham gia lễ hội không chỉ có dân vùng Bưởi mà còn có các vị lãnh đạo Đảng, chính quyền và đông đảo bà con các vùng khác. Trong lễ hội còn có các trò vui như: thi thả thơ, thi câu noi, bắt vịt, thi cây cảnh…
Gắn với trống đồng vật linh, đó là biểu hiện sức mạnh vật chất, tinh thần của dân tộc. Hội thề với núi sông độc đáo lành mạnh, có nội dung ý nghĩa giáo dục luân lý, đạo đức và truyền thống dân tộc đã trở thành một nét đẹp văn hóa đặc sắc và có một không hai ở Thủ đô nói riêng và nước Việt nói chung.